Phân tích truyện Chữ người tử tù (3 Dàn ý + 16 Mẫu) Phân tích Chữ người tử tù

Phân tách Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân tuyển chọn 3 gợi ý phương pháp viết kèm theo 16 mẫu cực hay. Giúp cho những em học sinh tự động học để mở rộng, nâng cao tri thức biết phương pháp phân tách đánh giá tác phẩm và thông điệp mà nhà văn muốn gửi tới bạn đọc.

Phân tách bài Chữ người tử tù là 1 đề tài hay những em sẽ được học trong chương trình Ngữ văn 10 Kết nối tri thức tập 1 và Ngữ văn 11 Cánh diều tập 1. Vì thế TOP 16 bài văn phân tách Chữ người tử tù dưới đây sẽ là nguồn tư liệu cực kì hữu ích, gồm cả mẫu ngắn gọn và toàn bộ để quý khách tham khảo, lựa chọn theo sức viết của mình. Ngoài ấy quý khách xem thêm: phân tách nhân vật Huấn Cao, kết bài Chữ người tử tù.

Dàn ý phân tách truyện Chữ người tử tù

Dàn ý số 1

I. Mở bài

– Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Tuân: 1 cây bút tài hoa độc đáo, có vùng vị trí quan yếu trong nền văn học tiên tiến Việt Nam

– Khái quát chung về tác phẩm 1 truyện ngắn tiêu biểu cho phong phương pháp tài hoa nghệ sĩ của ông, được in trong tập Vang bóng 1 thời (1940)

II. Thân bài

1. Tình huống truyện

  • Ko gian: nhà tù. Đây ko cần là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ.
  • Thời kì: những ngày cuối cùng trước lúc ra pháp trường của Huấn Cao.

⇒ Ko gian và thời kì góp phần tạo nên kịch tính cho vấn đề.

– Cuộc gặp gỡ khác thường của 2 con người khác thường :

⇒ Cuộc hội ngộ diễn ra giữa chốn ngục tù căng thẳng

2. Nhân vật Huấn Cao

a. 1 người nghệ sĩ tài hoa

– Người khắp vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao là người:

  • Có tài viết chữ “siêu nhanh và siêu đẹp”.
  • “Chữ ông Huấn Cao đẹp nhiều, vuông nhiều … có được chữ ông Huấn mà treo là có 1 báu vật trên trên đời”.

b. 1 con người có khí phách hiên ngang bất khuất

– Là thủ lĩnh của phong trào khởi nghĩa chống lại triều đình.

– Ngay lúc đặt chân vào nhà ngục: Thản nhiên rũ rệp trên thang gông:

⇒ khí phách, tiết tháo của nhà Nho

– Lúc được viên quản ngục biệt đãi: “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm cho trong chiếc hứng bình sinh”

⇒ phong thái tự động do, ung dung, xem nhẹ chiếc chết.

– Trả lời quản ngục bằng thái độ khinh miệt: “Ngươi hỏi ta muốn gì …vào đây”.

⇒ Ko khuất phục trước cường quyền.

⇒ khí phách của 1 người anh hùng.

c. 1 nhân phương pháp, 1 thiên lương cao cả

– Tâm hồn trong sáng, cao đẹp: “Ko vì vàng ngọc hay quyền thê mà ép mình viết câu đối bao giờ” ⇒ trọng nghĩa, khinh lợi, chỉ cho chữ những người tri kỷ.

– Lúc chưa biết tấm lòng của quản ngục: xem y là kẻ tiểu nhân

– Lúc biết tấm lòng”biệt nhỡn liên tài” của quản ngục: Huấn Cao nhận lời cho chữ

⇒ Chỉ cho chữ những người biết trân trọng chiếc tài và quý chiếc đẹp.

– Câu nói của Huấn Cao có quản ngục: “Thiếu chút nữa … trong thiên hạ”

⇒ Sự trân trọng đối có những người có sở thích thanh cao, có nhân phương pháp cao đẹp.

⇒ Huấn Cao là 1 anh hùng – nghệ sĩ, 1 thiên lương trong sáng.

3. Nhân vật quản ngục

a. Tấm lòng biệt liên tài

– Trong những ngày Huấn Cao trong ngục, quản ngục luôn bày tỏ thái độ nghiêm kính khiêm nhường

– Dũng cảm biệt đãi Huấn Cao

– Cảm thấy tiếc nuối lúc biết Huấn Cao sắp cần từ giữ cõi đời: “Bấy nhiêu …vũ trụ”.

b. Sự khát khao và trân trọng chiếc đẹp

– Khát khao chiếc đẹp: mong ước của ông là “được treo trên nhà riêng 1 đôi câu đối” do chính tay Huấn Cao viết.

– Lo lắng giả dụ như ko xin được chữ ông Huấn trước lúc bị hành hình thì “ân hận suốt đời mất”

4. Cảnh cho chữ

– Thời kì: đêm trước lúc Huấn Cao ra pháp trường chịu án chém, lúc chỉ còn “vẳng có tiếng mõ trên vọng canh”

– Địa điểm: trại giam tỉnh Sơn

– Ko gian: buồng tối chật hẹp, ẩm ướt…

– Đây là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có” :

  • Thân phận và hành động của người cho chữ và nhận chữ đặc biệt:
  • Xây dựng được những cặp phạm trù đối lập nhau

– Chi tiết quản ngục cúi đầu vái lạy người tử tù Huấn Cao: sự thức tỉnh trước chiếc đẹp, quản ngục đã thoát ra những chiếc tầm thường, ràng buộc để vươn tới chiếc cao đẹp.

⇒ Toàn bộ cảnh cho chữ là bài ca tôn vinh chiếc đẹp, chiếc thiện, chiếc thiên lương của con người trong hoàn cảnh tối tăm ngục tù hàng đầu.

III. Kết bài

– Khẳng định những nét nghệ thuật đặc sắc làm cho nên thành công của tác phẩm

– Chữ người tử tù là 1 văn phẩm xuất sắc đạt “sắp tới sự toàn thiện, toàn mĩ” (Vũ Ngọc Phan)

Dàn ý số 2

1. Mở bài

Dẫn dắt và giới thiệu tác phẩm.

“Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân được trích từ tập “Vang bóng 1 thời”- tập truyện được đánh giá là “những nén tâm hương nguyện cầu cho chiếc đẹp Việt Nam”. Truyện nói về nhân vật Huấn Cao được xây dựng dựa trên nguyên mẫu Cao Bá Quát- lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Mĩ Lương, 1 trí thức phong kiến nức tiếng tài hoa, có lối sống thanh cao.

2. Thân bài

a) Nhân vật Huấn Cao

* Lúc nhập ngục

  • Huấn Cao xuất hiện trong thân phận 1 tử tù nhưng trong mắt quản ngục lại là hiện thân của tài hoa.
  • Quản ngục đón Huấn Cao bằng chiếc nhìn hiền lành, thái độ ngưỡng mộ. Sở hữu quản ngục, có được chữ Huấn Cao treo trong nhà như có 1 báu vật trên trời.Huấn Cao, danh tiếng và tài hoa đã tỏa ánh hào quang nơi ngục lao, là người nghệ sĩ của nghệ thuật thư pháp. Thái độ của quản ngục và Huấn Cao mô tả tình cảm ngưỡng mộ của Nguyễn Tuân có chiếc đẹp và thái độ trân trọng của nhà văn có văn hóa cổ xưa dân tộc.

* Lúc trên trong ngục

  • Huấn Cao thản nhiên nhận sự biệt đãi của ngục quan, coi ấy là 1 việc vẫn làm cho trong chiếc hứng sinh bình.
  • Huấn Cao còn đáp lại ngục quan bằng những lời khinh bỉ và ngạo mạn.
  • Thái độ của Huấn Cao có quản ngục là thái độ của 1 vị trượng phu có quyền uy. Trong mắt
  • Huấn Cao, quản ngục là hình ảnh của chiếc xấu, chiếc ác, của cường quyền, bạo lực.
  • Thái độ nhẫn nhục, lễ phép của quản ngục lui ra có câu nói lễ phép “xin lĩnh ý” đã làm cho hiện lên hình ảnh người tử tù kĩ vĩ, uy nghi. Huấn Cao hiện ra có tư thế của 1 trang anh hùng, khí phách hiên ngang.

* Lúc cho chữ

  • Hành động cho chữ là hành động của 1 tấm lòng đền đáp 1 tấm lòng, hành động của 1 người tri kỉ dành cho kẻ tri âm, hành động đón bắt, nâng đỡ ánh sáng của thiên lương.
  • Nhân vật Huấn Cao được khắc họa bằng chiếc nhìn lãng mạn, bút pháp mang trong mình tính chất lí tưởng hóa. Vì vậy nhân vật mang trong mình vẻ đẹp toàn thiện, toàn mĩ.
  • Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân gửi gắm quan niệm nghệ thuật thẩm mĩ: chiếc đẹp bao giờ cũng music hành cùng chiếc thiện, chiếc tài luôn sóng đôi cùng chiếc tâm.

b) Nhân vật quản ngục

* Phương pháp ứng xử có Huấn Cao

  • Tình cờ, quản ngục biết được người mà ông ngưỡng mộ, người nắm những con chữ quý giá lại là người tử tù trong tay mình. Nhưng ông bất chấp sinh mệnh để biệt đãi Huấn Cao, 1 tấm lòng biệt nhỡn liên tài.
  • Bị Huấn Cao hiểu lầm, quản ngục vẫn cung kính, giữ lễ.
  • Lúc nhận tin Huấn Cao sắp bị giải vào kính chịu án chém, quản ngục lo lắng, sợ giả dụ ko xin được chữ Huấn Cao sẽ ân hận suốt đời.
  • Đằng sau thân phận của 1 ngục quan là tâm hồn của người nghệ sĩ khao khát, đam mê chiếc đẹp, tiếp cận, bảo lưu và giữ gìn chiếc đẹp.

* Trong cảnh cho chữ

  • Quản ngục khúm núm đựng những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng.
  • Sau thời điểm cúi đầu nghe lời khuyên của Huấn Cao, ngục quan cảm động, vái người tù 1 chiếc, chắp tay nói 1 câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho cho nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”
  • Có những chiếc cúi đầu làm cho cho con người trở nên hèn hạ, có những chiếc vái lạy làm cho cho con người đê tiện. Nhưng cũng có những chiếc cúi đầu làm cho cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy chính là chiếc cúi đầu trước chiếc đẹp, chiếc tài, chiếc thiên lương. Chính Cao Chu Thuần, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao cũng có 1 câu thơ thực đẹp, thực sang: “nhất sinh đê thủ bái hoa mai” (1 đời chỉ biết cúi đầu vái lạy hoa mai). Loại cúi đầu của thầy quản ngục vái lạy Huấn Cao chính là chiếc cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai vậy.
  • Tư thế và tâm thế của quản ngục lúc nhận chữ và lắng nghe lời khuyên của Huấn Cao đều mô tả thái độ thành kính. Sự khúm núm và cúi đầu ko cần ko mô tả sự ủy mị, hèn nhát, yếu kém mà ngược lại nó làm cho sáng lên vẻ đẹp nhân phương pháp của 1 tâm hồn thánh thiện, sự thành kính, sùng tín trước chiếc đẹp, khí phách và tài hoa giống chiếc cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai.
  • Nhân vật ngục quan là nơi Nguyễn Tuân gửi gắm quan niệm nhân sinh sâu sắc: ẩn sau trong tâm hồn con người đều ẩn chứa 1 tâm hồn nghệ sĩ, yêu chiếc đẹp, khao khát chiếc đẹp. Hãy nhìn thực sâu để nắm bắt ánh sáng của thiên lương vì đôi lúc trong điều kiện của chiếc xấu, chiếc ác thì chiếc đẹp ko những ko lụi tàn mà còn có sức mạnh đẩy lùi chiếc xấu, chiếc ác.

c) Đặc sắc nghệ thuật

  • Vấn đề truyện độc đáo có những sự kiện kịch tính, giàu ý nghĩa.
  • Biện pháp lãng mạn được phát huy cao độ để hướng tới tô đậm vẻ đẹp lí tưởng.
  • Ngôn ngữ, văn phong siêu riêng, vừa cổ kính vừa tiên tiến làm cho sống dậy trong lòng người đọc ko khí thiêng liêng, vang bóng.

3. Kết bài

Nêu cảm nghĩ của bản thân.

Qua câu chuyện về người tử tù, tác giả đã khẳng định sự bất tử của chiếc đẹp, tân vinh những giá trị chân thiện mĩ và kín đáo bộc lộ tấm lòng thiết tha có đất nước. Nhà văn cũng mô tả quan niệm thẩm mĩ tiến bộ: chiếc đẹp luôn music hành có chiếc thiện; quan niệm nhân sinh sâu sắc: sự tin tưởng vào thiên lương con người.

…………………..

Xem them: Dàn ý phân tách Chữ người tử tù

Sơ đồ tư duy phân tách Chữ người tử tù

Phân tách Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân ngắn gọn

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 1

Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, 1 nghệ sĩ suốt đời đi tìm chiếc đẹp”, ông có vùng vị trí và ý nghĩa quan yếu đối có nền văn học Việt Nam. Trước phương pháp mạng ông thoát li hiện thực, tìm về 1 thời vang bóng, tập Vang bóng 1 thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong phương pháp của ông trước phương pháp mạng. Trong ấy ta ko thể ko nhắc tới Chữ người tử tù có niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã cổ xưa.

Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng 1 thời xuất bản 5 1940, tác phẩm lúc xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in thành sách đổi thành Chữ người tử tù. Tác phẩm đã truyền tải toàn bộ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của chiếc đẹp, chiếc tài sáng tạo ra chiếc đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của chiếc xấu, chiếc ác, cần cần loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra vấn đề truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua ấy làm cho nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh chiếc đẹp, chiếc tài, khẳng định sự bất tử của chiếc đẹp trong cuộc đời.

Tác phẩm có vấn đề gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, 1 người mang trong mình chí lớn và thiên tài lớn nhưng ko gặp thời. Vị thế xã hội của 2 nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự động xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho quy tắc, trật tự động xã hội đương thời. Nhưng trên bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn : Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra chiếc đẹp, còn quản ngục là người thương và trân trọng chiếc đẹp và người sáng tạo ra chiếc đẹp. Đấy là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ có nhau. Sở hữu vấn đề truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển thành logic, hợp lí đẩy lên tới cao trào. Qua ấy giúp bộc lộ tính phương pháp nhân vật và làm cho nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của chiếc đẹp, sự thắng lợi của chiếc đẹp. Sức mạnh cảm hóa của chiếc đẹp.

Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nức tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen chiếc tài viết chữ siêu nhanh và siêu đẹp” tiếng tăm của ai khiến cho ai ai cũng biết tới. Loại tài của ông còn gắn liền có khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Loại tài của Huấn Cao ko chỉ ngừng lại trên mức độ bình thường mà đã đạt tới độ phi thường, siêu phàm.

Ko chỉ thiên tài, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” trên đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về thiên tài viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của thiên tài, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Từng chữ ông viết như 1 món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ đó để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông ko vì quyền uy mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương đó còn mô tả trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của những người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất 1 tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao có những con người quý trọng chiếc đẹp, chiếc tài.

trên Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của 1 con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người chuyên nghiệp chữ nghĩa nhưng ko đi theo lối mòn, dám đứng đầu 1 cuộc đại phản, đối đầu có triều đình. Lúc bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao ko hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thình 1 chiếc xuống nền đá tảng… Lúc viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, cẩn thận, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc tới điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có 1 điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kính chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.

Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả bố vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của 1 con người có khí phách. Ông ko để tâm tới mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Sở hữu việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ta tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính phương pháp dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại cần sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân phương pháp cao đẹp của ông đối lập có hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự động nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của 1 người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và giả dụ ko xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, giả dụ có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, vững chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” ko cần ai cũng cho chữ. Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn có người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được mô tả rõ nhất trên đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp hầu hết để tổ chức 1 đêm xin chữ chưa từng có. Bố con người, bố nhân phương pháp cao đẹp chụm lại lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm núm đựng từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, có thái độ sung kính, ngưỡng mộ chiếc đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù 1 vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Tác phẩm đã sáng tạo vấn đề truyện vô cùng độc đáo. Sở hữu nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, từng nhân vật mang trong mình 1 vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công lúc Nguyễn Tuân đã gợi lên ko khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại ko khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã mô tả niềm tin vào sự thắng lợi tất yếu của chiếc đẹp, chiếc thiên lương có chiếc xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng mô tả tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa cổ xưa, qua ấy kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Sở hữu nghệ thuật xây dựng vấn đề đặc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 2

Nguyễn Tuân là 1 con người siêu mực tài hoa, là bậc thầy về truyện ngắn. Sáng tác của ông được chia làm cho 2 giai đoạn trước và sau phương pháp mạng tháng 8. Tại giai đoạn trước ông được coi là nhà văn “duy mĩ” đam mê chiếc đẹp và coi chiếc đẹp là đỉnh cao của nhân phương pháp con người. “Vang bóng 1 thời” là tập truyện tiêu biểu cho sáng tác thời kì này của Nguyễn Tuân, ko tin tưởng trên hiện tại và tương lai ông đi tìm vẻ đẹp quá khứ của 1 thời vang bóng xa xưa có những phong tục, thú vui tao nhã lành mạnh trong ấy có thú chơi chữ của Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. 2 con người có nhân phương pháp cao đẹp, thiên lương trong sáng và cảnh cho chữ lạ lùng được hiện lên trong tác phẩm làm cho nổi bật cho thiên tài văn chương và tư tưởng của Nguyễn Tuân.

Huấn Cao trong câu chuyện là 1 người có tài viết chữ đẹp nhưng vì chống lại triều đình mà bị lãnh án tử hình. Trước lúc xử án ông được đưa tới 1 trại giam có viên quản ngục và thầy thơ lại yêu quý nét chữ, trân trọng người tài Huấn Cao nên đã biệt đãi tù nhân, mong muốn ông Huấn cho chữ. Hiểu được tấm lòng đó người tử tù có thiên lương trong sáng đã cho chữ trong hoàn cảnh éo le trước giờ chưa từng có. Vấn đề truyện là cuộc gặp gỡ giữa 2 con người khác biệt 1 bên là Huấn Cao có tài viết chữ nhưng lại đối đầu có triều đình, 1 bên là viên quan coi ngục đại diện cho người gìn giữ trật tự động xã hội phong kiến đương thời nhưng lại khao khát ánh sáng chữ nghĩa. 2 con người đối lập trên bình diện xã hội nhưng lại là tri âm, tri kỉ có nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhân vật đã được Nguyễn Tuân đặt vào trong vấn đề đối nghịch tạo ra kịch tính cho câu chuyện và cảnh cho chữ là nút thắt được tháo gỡ.

Huấn Cao là 1 con người tài hoa uyên chưng, khí phách hiên ngang, anh hùng bất khuất và có 1 thiên lương trong sáng được hiện lên trong tác phẩm. Trước tiên là gián tiếp trên phần đầu qua cuộc đối thoại của viên quản ngục có thầy thơ lại. Thiên tài viết chữ đẹp của ông được đứa ở vùng tỉnh Sơn ca tụng khiến cho cho viên quan coi ngục đau đáu 1 lòng có sở nguyện xin được chữ ông Huấn về treo trên nhà riêng của mình bởi “chữ ông Huấn Cao đẹp nhiều, vuông nhiều”. Nguyễn Tuân đã miêu tả sở nguyện của viên quan coi ngục để làm cho nổi bật lên chất tài hoa nghệ sĩ mà bao nhiêu người trong thiên hạ hằng khao khát có được. Ko chỉ vậy người tử tù siêu anh hùng là tên đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình vì bất mãn có chính sách cai trị triều chính, là kẻ ko sợ lời đe dọa của bọn lính áp giải mà tự động do, hiên ngang dỗ gông để trận mưa rệp rơi xuống đất, thản nhiên nhận rượu thịt ung dung làm cho 1 người tù tự động do trong nhà lao. Có mấy ai trước lúc chết mà vẫn giữ được bản lĩnh và phong thái như vậy? Ông làm cho ra vẻ khinh bạc viên quan coi ngục có câu nói: “Ngươi hỏi ta muốn gì ư? Ta chỉ muốn có 1 điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây” xưa nay ta chỉ thấy quan coi ngục đánh mắng người tù chứ hiếm lúc thấy điều ngược lại. Con người đó hiện lên qua suy nghĩ của quan lại coi ông là 1 tên tội phạm nguy hiểm, là kẻ chọc trời khuấy nước lúc nhận được án chém vẫn bình tĩnh, tự tín đón nhận chiếc chết. Huấn Cao ko bao giờ khuất phục trước quyền uy, cường quyền và bạo lực. Ông là 1 nhân vật hiếm có xưa nay bởi sự hòa quyện của chất nghệ sĩ có chất anh hùng tạo nên nét biệt lập, độc đáo khác có những nhân vật trong “Vang bóng 1 thời”. Con người đó còn có 1 thiên lương trong sáng ko cần ai trên đời ông cũng cho chữ, cuộc đời ông Huấn chỉ new cho bố lần là bố người bạn tri kỉ. Nhưng lúc hiểu được tấm lòng của quan coi ngục ông mỉm cười nhắc thầy thơ lại chuẩn bị cẩn thận để ông có thời cơ được đáp lại sự chân tình đó. Giọng Huấn Cao đã trở nên từ tốn, hòa dịu hơn siêu nhiều: “Về bảo có chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem, mực, bút và cả bó đuốc xuống đây ta cho chữ”. Cho chữ chứ ko cần là viết chữ, nghe như là lời của bề trên ban xuống cho người dưới. Ông khẳng định “Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Huấn Cao ko màng vinh hoa phú quý cũng ko sợ cường quyền mà ép mình làm cho điều ko thích. Dù trên trong chốn ngục tù bị giam cầm về thân xác nhưng tâm hồn ông ko bao giờ bị giam giữ, ông vẫn luôn tự động do về nhân phương pháp.

Ông Huấn quyết định cho chữ trong hoàn cảnh “xưa nay chưa từng có” theo như Nguyễn Tuân nhận xét. Cảnh cho chữ thực xác đáng là 1 nghệ thuật đặc sắc được nhà văn miêu tả thực đáng khâm phục thiên tài. Thời kì là đêm cuối của 1 người tù trước lúc ra pháp trường. Quang cảnh cho chữ vừa lạ vừa đẹp vừa như 1 ảo ảnh. Lạ vì xưa nay người ta cho chữ trong căn phòng sạch sẽ, lung linh ánh nến ánh đèn, có mùi vị thơm của hương trầm nhưng trên đây tại nhà lao chẳng có gì bên cạnh “Buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” chỉ có ánh đuốc tẩm dầu sáng đỏ rực, khói tỏa như đám cháy nhà. Phòng giam bố người nhưng chỉ 1 người hoạt động. Thầy thơ lại run run bưng chậu mực. Viên quản ngục 2 tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Huấn Cao “cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa”, từng nét chữ thoăn thoắt được viết ra, “người tù viết xong 1 chữ, viên quản ngục lại khúm núm đựng những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”. Ta thấy tư thế đối nghịch nhau giữa 1 người tù bị giam cầm và 2 người tự động do đại diện cho cường quyền bấy giờ. Huấn Cao thì ung dung, tự động tại và đối lập có tư thế đó là sự “khúm núm” của viên quan coi ngục và “run run” của thầy thơ lại. Loại “khúm núm” của quan coi ngục ko cần là chiếc cúi đầu hèn hạ mà trái lại siêu đáng trân trọng. Ông cúi đầu thành kính trước chiếc đẹp ấy là 1 điều nên làm cho trên trong đời. Vị thế và tâm thế bị đảo ngược hoàn toàn. Người có quyền lại ko có uy, người tử tù lại giữ trong tay quyền sát quyền sinh, người đáng lẽ cần giáo dục, giáo hóa tội phạm thì nay lại được tội phạm giáo dục lại nhân phương pháp, thiên lương lúc được ông Huấn cho lời khuyên nên thay đổi chốn trên đi, “Thầy quản nên tìm về nhà quê mà trên, thầy hãy thoát khỏi chiếc nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ.Tại đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất chiếc đời lương thiện đi” ấy là lời khuyên chân thành để giữ được nhân phương pháp cao đẹp. Trước tấm lòng chân tình đó viên quản ngục lùi ra mà nói sắp như muốn khóc và cảm động: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cả bố con người cùng đồng điệu, cùng chung 1 tấm lòng yêu tha thiết chiếc đẹp, chiếc đẹp chữ viết đi liền có chiếc đẹp tâm hồn và nhân phương pháp thiên lương trong sáng.

Như vậy qua tác phẩm “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân đã cho ta thấy bố thái độ của con người đối có chiếc đẹp. Trước tiên ấy là thái độ hủy diệt. Điều ấy được trình bày qua mấy tên lính mà nhà văn miêu tả sơ lược trên đoạn đầu có thái độ hách dịch, vô lễ có Huấn cao và bạn tù của ông. Chúng là hạng thiên lôi tàn bạo chỉ đâu đánh ấy, trên trong chốn ngục tù nhiều ngày ngày bị nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Bên cạnh ra qua mệnh lệnh của quan trên tai lớn mặt lớn trên Hưng Sơn Tuyên đốc bộ đường đại diện cho chính quyền phong kiến bảo thủ, trì trệ cố hủy diệt thiên tài của người tài để gìn giữ ngôi báu tàn bạo, độc ác của mình.

Thái độ thứ 2 là yêu mến chiếc đẹp và quý trọng người tài. Mô tả qua tấm lòng, hành động của viên quản ngục và thầy thơ lại. Họ cảm mến Huấn Cao qua lời đồn, luôn muốn biết những người tài và bất chấp cả nguy hiểm tới tính mạng để có thể hoàn thành sở nguyện cao đẹp là xin chữ ông Huấn. Họ tiếc cho 1 anh tài như ông lại bị đao chém pháp trường hủy diệt. Loại đẹp thì ai cũng quý nhưng biết đẹp mà quý cũng đáng trân trọng biết bao bởi nó làm cho cho con người đẹp lên, phẩm chất cao hơn và thơm ngát hơn cho tấm lòng thiên lương trong sáng, thanh sạch.

Thái độ thứ bố là sự cao thượng và rộng lượng của bậc chính nhân quân tử, nghệ sĩ tài bố của Huấn Cao. Điều ấy được trình bày qua nhân phương pháp và hành động của ông được tác giả khắc họa. Huấn Cao là con người đặc biệt có 1 ko 2 trong trang viết của Nguyễn Tuân để lại cho tác giả sự trân trọng và nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho 1 con người tài chuyên nghiệp, có nghĩa khí và nhân phương pháp cao đẹp lại gặp ko đúng thời, đúng vận mệnh. Huấn Cao ngày nay cũng siêu nhiều nhưng ko ít người đang dần bị vùi chôn vậy nên lực quyền uy và sức mạnh của đồng tiền. Theo như thông tin của Bộ giáo dục ngày 17/7/2018 trên Hà Giang sau khoản thời gian thanh tra rà soát lại công tác chấm thi có 114 thí sinh bị hạ điểm vì điểm thi công bố bị gian lận, nâng lên quá nhiều so có năng lực thực tế của những em. Nạn chảy máu chất xám, sắm điểm, sắm quan bán chức… đã khiến cho biết bao người tài có trí tuệ thiên tài thực sự bị vùi dập 1 phương pháp tàn bạo. Đấy là nỗi đau lớn của ngành giáo dục của cả đất nước con người Việt Nam. Hiền tài như Huấn Cao nhưng lại bị cướp trắng trợn thời cơ để cống hiến cho đất Việt.

Qua tác phẩm tác giả mô tả được tư tưởng của mình về nghệ thuật và nhân phẩm con người. Nhân phương pháp đẹp là sự hài hòa giữa chiếc tài và chiếc tâm và chiếc đẹp luôn cần gắn liền có chiếc thiện ko thể tách đi, bản thân chiếc đẹp chính là đạo đức. Loại đẹp ko chỉ được sáng tạo ra trên nơi thanh tao, sạch sẽ mà ngay trên trong môi trường của chiếc xấu và chiếc ác nó cũng luôn tồn tại nhưng ko vì thế mà lụi tàn trái lại càng nó càng tỏa sáng rực rỡ và mạnh mẽ hơn. Chỉ có chiếc đẹp new có thể cảm hóa được tâm hồn con người làm cho cho chúng trở nên phải chăng hơn, cao đẹp hơn trên trên đời.

Nguyễn Tuân có thiên tài nghệ thuật tương phản có bút pháp tả thực và lãng mạn đan xen, sự sắc sảo điêu luyện của ngòi bút đã khắc họa con người và cảnh vật chi tiết, tỉ mỉ gây ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Tuân cần là 1 con người thương mến và trân trọng thiên tài, chiếc đẹp vô cùng new có thể viết được truyện ngắn “Chữ người tử tù” có sự hiện thân của 2 con người có nhân phương pháp cao đẹp như Huấn Cao và viên quản ngục hay tới thế.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 3

Nhà thơ lừng danh người Mỹ Ralph Emerson từng có câu nói siêu hay rằng: “Yêu chiếc đẹp là thường thức. Tạo ra chiếc đẹp là nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng chiếc đẹp new là người nghệ sĩ chân chính.” Có lẽ từ nhiều ngày nhà văn Nguyễn Tuân đã sớm thấm nhuần tư tưởng trên mà cả cuộc đời ông là 1 chặng đường đam mê đi tìm chiếc đẹp thanh cao, chiếc đẹp của chuẩn mực tạo hoá. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã khắc hoạ siêu thành công chân dung vẻ toàn mỹ, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì nó vẫn luôn toả sáng và trường tồn có thời kì.

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong 1 gia đình Nho giáo, quê ông trên làng Mọc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn Tuân là nhà văn lớn có đóng góp vô cùng quan yếu cho nền văn học Việt Nam tiên tiến, cả đời ông đam mê đi tìm chiếc đẹp trong cuộc sống để từ ấy thổi hồn vào trong những tác phẩm của mình những làn gió new, những vẻ đẹp nhân văn cao đẹp. Những tác phẩm chính của ông gồm có : 1 chuyến đi (1938), Vang bóng 1 thời (1940), Sông Đà (1960),… Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in 5 1939 tên tạp chí Tao Đàn, tiếp theo được in trong tập truyện Vang bóng 1 thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Hình tượng Huấn Cao – 1 con người tài hoa, lỗi lạc có ý chí hiên ngang, bất khuất, cho dù là chí lớn ko thành nhưng ông cũng ko bao giờ gục ngã, vẫn giữ cho mình tâm hồn thanh cao trước cảnh ngục tù tối tăm, u uất.

Thành công của 1 tác phẩm truyện ngắn là tới từ vấn đề truyện đặc sắc, ấy chính là cái chìa khóa liên quan cốt truyện dâng lên cao trào như phương pháp mà Nguyễn Minh Châu từng nói ấy là: “Tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong ấy sự sống hiện ra siêu đậm đặc”. Chữ người tử tù cũng là 1 câu chuyện như thế, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào nghịch cảnh trớ trêu, cuộc hội ngộ giữa 2 thế lực đối lập. 1 bên đại diện cho con người tài hoa khí phách, 1 bên là quyền lực tăm tối của xã hội phong kiến. Cuộc gặp gỡ diễn ra đầy kịch tính, lôi cuốn người đọc, cuối cùng vẻ đẹp thiên lương tao nhã đã thắng thế trước sự xã hội tàn bạo, xấu xa.

Chữ người tử tù xây dựng thành công tuyến nhân vật chính diện, họ là trung tâm đại diện cho chiếc đẹp thanh cao trong tâm hồn, dù trên trong hoàn cảnh nào, dù thực tế xã hội có dở bẩn ra sao cũng ko thể nào làm cho vướng bẩn nhân phương pháp thiên lương của họ. Trước tiên là hình tượng Huấn Cao – 1 vị anh hùng sa cơ, thất thế ông là người lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh đòi lại công bằng cho chính mình. Đấy thế mà trong con mắt của chế độ phong kiến ông lại bị gọi là kẻ “phản nghịch”, kẻ đứng đầu nguy hiểm cần cần tiêu diệt. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân sáng tạo hình tượng Huấn Cao dựa trên nguyên mẫu Cao Bá Quát – 1 người tài hoa, nghệ sĩ, tinh thần quả cảm và đặc biệt là có tài viết chữ đạt tới độ tuyệt mỹ. Huấn Cao là phương pháp gọi kính trọng, là 1 người mang trong mình họ Cao giữ chức huấn đạo – chức quan trông coi việc học trên 1 huyện.

Nguyễn Tuân khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trải qua bình diện để thấy được chiếc vẻ đẹp thanh cao đạt tới chân – thiện – mỹ của 1 người tài hoa hàng đầu. Trước tiên, nhà văn miêu tả Huấn Cao là 1 người nghệ sĩ tài hoa, lừng danh khắp chốn. Ông xuất hiện gián tiếp trong câu chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại, là người mà “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen chiếc tài viết chữ siêu nhanh và siêu đẹp”, ko những thế ông còn có tài “bẻ khoá và vượt ngục”. Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm quả là 1 người “văn võ music toàn”, hội tụ hầu hết những khí chất của 1 người anh hùng tài bố. Tác giả giới thiệu Huấn Cao có lối miêu tả gián tiếp là hoàn toàn có dụng ý khéo léo, chu toàn ông muốn để cho nhân vật của mình xuất hiện 1 phương pháp tự động nhiên mà ko đường đột, từ ấy cho người đọc thấy được hình tượng nhân vật phi thường tiếng thơm đã truyền đi khắp nhân gian, lúc nhắc tới tiếng tăm cả viên quản ngục hay thầy thơ lại đều đã từng nghe qua. Loại tài hoa, nghệ sĩ của ông Huấn cao còn được bộc lộ rõ nét nhất lúc viên quản ngục bất chấp hiểm nguy, chỉ có hy vọng có được chữ của ông, chữ ông “đẹp nhiều, vuông nhiều” chỉ cần có 1 đôi câu đối của Huấn Cao treo trong nhà coi như là “y đã mãn nguyện” bội phần, dường như trên đời sẽ chẳng có gì có thể làm cho cho viên quản ngục vui vẽ hơn thế nữa.

Huấn Cao còn là vị anh hùng có khí phách hiên ngang ngút trời, dù lâm vào cảnh tù đày đối diện có án tử nhưng ông chẳng 1 chút sợ hãi vẫn giữ cho mình nhân phương pháp thanh cao, ko nhún nhường trước cường quyền táo bạo. Trước lời giễu cợt của bọn lính cai ngục, Huấn Cao yên lặng “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng” 1 hành động dứt khoát như là lời cảnh báo vững chắc nịch của người tử tù có bọn nha sai hách dịch, cậy quyền. Trong ngục tù tăm tối ông thản nhiên, ung dung “nhận rượu thịt, coi như ấy là 1 việc vẫn làm cho trong chiếc hứng sinh bình”, thực là hiếm có người tù nào sắp chết mà vẫn giữ thái độ điềm nhiên, bình thản được như Huấn Cao. Chẳng sợ cường quyền, khinh bạc chế độ xã hội tàn bạo dù biết trước sẽ cần đối đầu có 1 trận “lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo” thế nhưng người anh hùng cũng chẳng thể dối lòng “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có 1 điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây” Câu nói thẳng thừng như gáo nước lạnh tạt thẳng vào bộ mặt phong kiến.

Nguyễn Tuân còn miêu tả người anh hùng kiên cường mang trong mình tấm lòng thiên lương cao cả. Huấn Cao từ thuở sinh thời ko bao giờ ham phù hoa, danh lợi mà bán chữ. Đời ông cũng chỉ viết có “2 bộ tứ bình và 1 bức trung đường” cho những người bạn tri kỷ. Ông quan niệm chiếc đẹp thanh cao cần được trao cho đúng người new phát huy được hết giá trị của nó. Huấn Cao đã bị cảm động trước sự đối đãi chân tình “biệt nhỡn liên tài” của chủ tớ Viên quản ngục. Tấm lòng nhân hậu ko muốn phụ “1 tấm lòng trong thiên hạ”.

Bên cạnh nhân vật trung tâm Huấn Cao, Nguyễn Tuân còn xây dựng thêm 1 tuyến nhân vật viên quản ngục, 1 người thương thích chiếc đẹp, tâm hồn tài hoa nghệ sĩ nhưng lại bị lạc vào chốn nhơ bẩn, dung tục. Nhà văn xây dựng đồng thời 2 nhân vật chính diện đồng thời soi chiếu cho nhau tỏa sáng có vẻ đẹp tâm hồn tao nhã. Viên quản ngục dường như chọn nhầm nghề, ông là “1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Như phương pháp mà tác giả nói “Ông trời nhiều lúc chơi ác, đem đày ải những chiếc thuần khiết vào giữa 1 đống cặn bã”. Thực đáng trân trọng sống giữa 1 xã hội rối ren, loạn lạc mà vẫn giữ cho tâm hồn mình ko vị vùi lấp trong bùn lầy, ông còn còn biết trân trọng chiếc đẹp, biết nể trọng người tài, là người dũng cảm bất chấp hiểm nguy.

Vào 1 đêm hoang vắng, tại trại giam tỉnh Sơn đã xảy ra “1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Trong buồng giam tăm tối, chật hẹp, mùi vị ẩm mốc bốc lên, xung quanh là đầy nhưng mạng nhện giăng, mùi vị hôi thối của phân chuột, phân gián. Trong ko khí khói tỏa, ngọn lửa đỏ rực của ngọn đuốc đang cháy hừng hực. “1 người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”, vị thế nhân vật dường như đổi dời người nắm quyền thế bỗng dưng khép nép, kính cẩn trước 1 tử tù. Loại đẹp ko lẻ loi đơn độc, nó ko tồn tại cùng chiếc xấu xa mà thắng lợi chúng, nhân đạo hoá những tâm hồn đang vướng bụi trần giúp họ thức tỉnh, tìm lại con người nhân nghĩa vốn có của mình.

Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân là 1 thiên truyện đã đạt “sắp tới sự toàn diện, toàn mỹ”. Tác phẩm mô tả phong phương pháp nghệ thuật tài tình của nhà văn, tạo dựng thành công vấn đề truyện độc đáo, khắc họa tính phương pháp nhân vật qua thủ pháp đối lập, tương phản homosexual gắt, ngôn ngữ trang trọng giàu hình ảnh sinh động. Qua truyện, tác giả đã khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của chiếc đẹp, mô tả lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 4

Nguyễn Tuân trước Phương pháp mạng tháng 8 là 1 nhà văn duy mĩ. Ông yêu tới say đắm chiếc đẹp, ngợi ca chiếc đẹp, tôn thờ chiếc đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân phương pháp con người. Ông săn lùng chiếc đẹp ko tiếc công sức. Ông miêu tả chiếc đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân cần là hiện thân của chiếc đẹp.

Đấy là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông tìm ra, miêu tả chiếc đẹp bên bên cạnh và bên trong của nhân vật. Trong chiếc đẹp của ông bao gồm chiếc chân và thiện. Ông lại còn hài hòa mĩ có dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng 1 thời” là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng khoa học thuật của Nguyễn Tuân được mô tả chủ yếu trong đoạn văn tả “1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng 1 người tử tù cho chữ 1 viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là 1 nho sĩ tài hoa của 1 thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, 1 lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, 1 con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước lúc phát triển thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào 2 tính phương pháp của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nức tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa mô tả hoàn hảo thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối có xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có 2 nhân vật chính, 1 là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, 1/2 là viên quản ngục đam mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi phương pháp để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong vấn đề oái oăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là 1 tên “đại nghịch” đứng đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là 1 quản ngục đại diện cho chiếc trật tự động xã hội đó. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ trên 2 vùng vị trí đối lập. Vấn đề của truyện có tính kịch. Từ vấn đề đầy kịch tính đó, tính phương pháp 2 nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được mô tả 1 phương pháp sâu sắc.

Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và quyền uy, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý chiếc đẹp của chữ nghĩa “ta cảm chiếc tấm lòng biệt nhỡn liên tài của những người. Nào ta có biết đâu 1 người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy”. Viên quản ngục cũng ko dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon males vào ngục định làm cho quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có 1 điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói 1 lời sâu sắc và cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ 1 tấm lòng trong thiên hạ”.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý chiếc đẹp, chiếc tài, có sở thích cao quý. Những con người đó theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ chiếc nghề nhơ bẩn của mình đi “trên đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.

Huấn Cao còn đẹp trên khí phách. Ông là 1 người tử tù sắp tới ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của 1 anh hùng Cao Bá Quát. “Đêm hôm đó, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, 1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong 1 buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý miêu tả bằng phương pháp tương phản giữa tính phương pháp cao quí của Huấn Cao có chiếc dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, 1 hình ảnh thu bé của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, chiếc mĩ và chiếc dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của 1 bó đuốc tẩm dầu, “1 người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong 1 chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm đựng những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên bé bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là 1 “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài những lại ko diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều ấy cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho chiếc ác, chiếc tàn bạo ấy, ko cần chiếc ác, chiếc xấu đang thống trị mà chính chiếc Đẹp, chiếc Dũng, chiếc Thiện, chiếc cao cả đang làm cho chủ. Sở hữu cảnh cho chữ này, chiếc nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì ko còn kẻ phạm tội tử tù, ko có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo chiếc đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, hầu hết đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của chiếc đẹp, chiếc đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng có cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên chiếc hoài bão tung hoành cả 1 đời của ông trên lụa bạch sẽ còn ấy. Và nhất là lời khuyên của ông đối có tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm cho người trong thời đại nhiễu nhương ấy. Quan niệm của Nguyễn Tuân là chiếc Đẹp gắn liền có chiếc Thiện. Người đam mê chiếc đẹp trước hết cần là người có thiên lương. Loại Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn có chiếc Dũng. Hiện thân của chiếc Đẹp là hình tượng Huấn Cao có khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Ngoài hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy 1 tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đấy là âm thanh trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Loại tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, chiếc cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực ko cần là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến cho ta có cảm tình có con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo lúc dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư bố. 1 ko khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

“Chữ người tử tù” ko còn là “chữ” nữa, ko chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của 1 đời người”. Đây là sự thắng lợi của ánh sáng đối có bóng tối. Đấy là sự thắng lợi của chiếc đẹp, chiếc cao thượng, đối có sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự thắng lợi của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân phương pháp theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân.

Xem Thêm  Bài viết số 5 lớp 9 đề 4: Suy nghĩ của em về hiện tượng vứt rác bừa bãi nơi công cùng 4 Dàn ý & 18 mẫu bài viết số 5 lớp 9 đề 4

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 5

Nguyễn Tuân là 1 nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam tiên tiến. Nói tới Nguyễn Tuân là nói tới 1 nghệ sĩ tài hoa. Từng lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như 1 nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). 1 trong những nét bút trác tuyệt ấy là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – 1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Vì vậy nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là trình bày cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu tới cuối, ông hiện ra như 1 con người phi thường. Từ tài hoa tới thiên lương, từ thiên lương tới khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là 1 giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.

Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất trước tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của 2 nhân vật quản ngục và thơ lại. Tại đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nức tiếng có tài văn võ music toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Loại tài được tô đậm nhất trên nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đấy là nghệ thuật thư pháp – 1 bộ môn nghệ thuật cổ xưa và cao siêu của dân tộc. Tại sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Vì vậy từng con chữ là 1 tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Vì vậy từng con chữ là 1 tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Từng con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao mô tả nhân phương pháp Huấn Cao. Nó quý giá ko chỉ vì được viết siêu nhanh, siêu đẹp, đẹp nhiều, vuông nhiều mà trước hết vì ấy là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của 1 đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã phát triển thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi hầu hết, nói cả sự hello sinh về lợi quyền và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao ko chỉ là 1 đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có 1 tấm lòng – ấy là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.

1 nhà văn nước bên cạnh đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là trên ấy. Thì ra gốc của thiên tài là trên trái tim, gốc của chiếc tài là chiếc tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân phương pháp Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là 1 kẻ tầm thường ko làm cho nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã mô tả sự khinh bỉ ko cần giấu giếm, tới lúc nhận ra viên ngục là 1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao siêu ân hận. Bằng hầu hết sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm chiếc tấm lòng biệt nhỡn liên tài của những ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ 1 tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói đó đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của 1 nhân phương pháp sống là cần xứng đáng có những tấm lòng.

Sáng tạo lãng mạn bao giờ cũng xui khiến cho những nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí tới mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho cho hình tượng này phát triển thành 1 con người siêu phàm có việc tô đậm 1 khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã đứng đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp ko thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và chiếc chết cùng ko khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy trên những nơi mà tự động do bị tước bỏ. Đối có Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và lúc quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc tới điều… lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông cần rước lấy những trận trả đũa. Nhưng 1 lúc đã nói nghĩa là ông ko hề run sợ, ko hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như 1 khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.

Những phẩm chất tuyệt vời ấy của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự trình bày sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.

Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta ko thể ko nói tới quy trình dẫn tới cảnh cho chữ đó. Người tinh ý sẽ dễ nhận ra rằng câu chuyện có 2 phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu những nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Ví dụ ko có phần 2 thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Vì vậy phần 2 tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh 1 vấn đề đặc biệt. Đấy là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời kì là những ngày cuối cùng trước lúc ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của 2 nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. 1 người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là 1 viên quan đại diện cho chính thể đó. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là 2 người tri âm: 1 người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ chiếc tài ấy. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm cho tròn bổn phận của 1 viên quan thì cần chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ cần phản bội lại chức phận của 1 viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng ấy.

Sở hữu 1 tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu siêu căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là thời cơ cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục cần được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều ấy lại dường như ko thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là 1 vực sâu ngăn phương pháp. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử có những người tù thông thường. Đấy là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao ko cần hạng tiểu nhân như thế, quyền lực ko ép được ông cho chữ, tiền bạc ko sắm được chữ ông. Might thay đổi trên viên quản ngục lại có 1 tấm lòng trong trẻo – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã khiến cho cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn tới cảnh cho chữ.

Vậy là việc Huấn Cao cho chữ ko giống như việc trả nợ 1 phương pháp tầm thường, ko giống việc 1 kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng ko cần là thời cơ cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn thiên tài, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của 1 tấm lòng trước 1 tấm lòng.

Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi ấy là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó cần diễn ra trên nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho chiếc đẹp lẽ ra cần thuộc thế giới tự động do thì trên đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt trên đây diễn ra 1 sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy lúc chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như 1 bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự thắng lợi của chiếc đẹp, thiên lương trước chiếc xấu, chiếc ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp ấy, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi vị thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi vị phân chuột, phân gián, màu sắc trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này chiếc đẹp đang lên ngôi, chiếc đẹp đang đăng quang, thắng lợi hoàn toàn chiếc xấu. Trong những con người đó lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng chiếc đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục – 1 kẻ nhầm đường, lạc lối.

Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng chiếc đẹp có thể tồn tại trên mọi nơi, mọi lúc, thắng lợi mọi chiếc xấu, chiếc ác. Và chiếc đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại sắp nhau hơn. Loại đẹp sẽ ko mất đi ngay cả lúc nó bị vùi dập. Đấy là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Sở hữu nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm cho nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự thắng lợi của chiếc đẹp. Đồng thời nhà văn còn dùng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện mang trong mình lại cho truyện bầu ko khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của 1 thời vang bóng.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 6

Bước vào văn đàn Việt Nam, ta ko khỏi ngỡ ngàng bởi chiếc đẹp hiện hữu khắp mọi nơi, man mác khắp những trang văn: “man mác khắp vũ trụ” (Thạch Lam). Tới có những trang viết của Nguyễn Tuân- “1 người suốt đời đi tìm chiếc đẹp và chiếc thực”, ta bắt gặp 1 cuộc gặp gỡ, 1 cuộc hội ngộ của chiếc đẹp trong hoàn cảnh đề lao tăm tối, tàn nhẫn. Đấy là cuộc gặp gỡ của những nhân phương pháp đẹp, những con người biết tạo ra và trân trọng chiếc đẹp trong cuộc đời.

Ai ấy đã cho rằng: “suy tưởng về chiếc đẹp là nét nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Tuân”. Thực vậy, chiếc đẹp như 1 chất xúc tác kì diệu và tới lúc bước vào trang viết của Nguyễn Tuân thì được phát lộ, tỏa sáng lạ thường. “Chữ người tử tù” chính là cuộc gặp gỡ của chiếc đẹp của Huấn Cao và viên quản ngục, cuộc gặp gỡ khác thường của 2 con người khác thường giữa chốn lao tù. Bởi sự đam mê và ngưỡng mộ, ngục quan – kẻ nắm giữ quyền uy trong nhà lao đã lặng lẽ biệt đãi Huấn Cao-người tử tù nức tiếng bởi tài hoa và khí phách phi thường. Đấy cũng là cuộc gặp gỡ đặc biệt, 1 cuộc gặp gỡ chưa từng có bao giờ của 1 kẻ tù nhân phạm tội có 1 người đại diện cho pháp luật và quyền uy. Nhưng trên địa hạt của chiếc đẹp, họ là những nhân phương pháp đồng dạng là những con người biết sinh thành và nuôi dưỡng chiếc đẹp trong cuộc đời. Xét tới cùng “Chữ người tử tù” là cuộc hội ngộ của những nhân phương pháp cao đẹp bị cầm tù bởi bạo lực, hoàn cảnh, là hiện thân của chiếc đẹp trong cuộc sống này!

Người đã thai nghén, sinh thành ra chiếc đẹp trong “Chữ người tử tù” ko ai khác, chính là Huấn Cao – “là người của vùng tỉnh Sơn”, “viết chữ siêu nhanh, siêu đẹp” và “có chữ ông Huấn mà treo là có 1 báu vật trên đời”. Tiếng thơm của người nghệ sĩ đó đã được ngợi ca qua những khao khát và sự ngưỡng mộ của quản ngục. Ca ngợi tài hoa của Huấn Cao, coi những con chữ của Huấn Cao là tác phẩm vô giá, Nguyễn Tuân đã gửi gắm lòng yêu quý chiếc đẹp và sự trân trọng văn hóa cổ truyền dân tộc, đúng như Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Nguyễn Tuân là 1 trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc sắc riêng: gắn liền có những giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc”. Music ai ấy đã cho rằng “Huấn Cao là sự nổi loạn của chiếc đẹp”. Quả ko sai bởi Huấn Cao ko chỉ phát lộ chiếc đẹp của thiên lương mà còn tỏa sáng chiếc đẹp rạng ngời của người anh hùng đầy khí phách. Trong hoàn cảnh đề lao nhưng khí phách của ông vẫn ko bị nguội lạnh, ông đã dám chống lại triều đình phong kiến, ông tỏ thái độ coi thường, bất chấp trò tiểu nhân thị oai của bọn lính canh, thái độ cao ngạo, khinh bạc trước sự biệt đãi của quản ngục. Đấy như là lời thách thức có cường quyền bạo lực. Lúc ngục quan khép nép hỏi ông Huấn: “ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu cấp.” Ông Huấn đã trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có 1 điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây.” Lời nói đó như 1 gáo nước lạnh nhưng lại làm cho quản ngục thêm phần kính nể Huấn Cao. Đấy hẳn cần là khí phách của 1 trang nam nhi chọc trời khuấy nước. Phương pháp hành xử của Huấn Cao cho thấy dù trên trong hoàn cảnh nào ông vẫn hoàn toàn tự động do về nhân phương pháp. Sự lễ phép và khúm núm cả viên quản ngục càng tô đậm tầm vóc kì vĩ, vẻ đẹp hiên ngang của ông Huấn. Huấn Cao ko vì quyền thế hay tiền bạc mà ép mình cho chữ bao giờ. Cả đời ông cũng chỉ cho chữ bố người bạn thân. Nhưng lúc biết được tâm sự và tấm lòng của người quản ngục, Huấn Cao đã đột ngột thay đổi đổi: “nào ta có biết đâu, 1 người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất 1 tấm lòng trong thiên hạ.” Huấn Cao đã nắm bắt và nâng đỡ ánh sáng của thiên lương và việc cho chữ là việc “1 tấm lòng ta đền đáp 1 tấm lòng trong thiên hạ”, là hành động đền đáp 1 tấm lòng trong thiên hạ. Huấn Cao chính là sự hiện diện của chiếc đẹp toàn diện, “sự tỏa sáng của những tấm lòng” xuyên suốt “Chữ người tử tù”. Lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân Huấn Cao đã phát triển thành biểu tượng cho vẻ đẹp thiêng liêng, tao nhã của nền văn hóa cổ truyền, kết tinh tinh hoa dân tộc. Yêu mến, ngợi ca và tiếc nuối những con người như ông Huấn, Nguyễn Tuân đã gián tiếp bày tỏ tấm lòng của mình có những giá trị ngàn xưa đồng thời bày tỏ quan niệm thẩm mĩ tiến bộ: chiếc đẹp, chiếc thiện luôn luôn music hành và làm cho nên nhân phương pháp con người. Ai ấy đã cho rằng: “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như để chơi ngông có thiên hạ”. Thấp thoáng đâu ấy trong bóng dáng của người tử tù ta cũng thấy chiếc nét “ngông” vừa cổ điển, vừa kế thừa cổ xưa tài hoa của thế hệ trước, 1 chiếc ngông luôn luôn muốn phản ứng lại hiện thực xã hội đương thời, 1 chiếc ngông chỉ xuất hiện trong những trang viết của Nguyễn Tuân.

Đằng sau sự tài hoa của Huấn Cao, nhân vật quản ngục xuất hiện như hiện thân của niềm đam mê, trân trọng chiếc đẹp. Đấy như 1 phép màu sắc kì diệu biến quản ngục thành “thanh âm trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Tâm nguyện cả đời của quản ngục, ko gì hơn, ấy là có được chữ của ông Huấn để treo trên nhà riêng. Tâm nguyện đó bỗng chốc biến viên quản ngục đẹp như 1 người nghệ sĩ thực thụ, biết đam mê, biết hướng về chiếc đẹp đúng như Ralph Waldo Emerson cho rằng: “Yêu chiếc đẹp là thường thức. Tạo ra chiếc đẹp nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng chiếc đẹp new là người nghệ sĩ chân chính”. Quản ngục biệt đãi Huấn Cao, luôn luôn cung kính và lễ phép trước thái độ kiêu ngạo của ông Huấn, thành kính đón nhận những lời khuyên của ông. Chính điều ấy đã mở đường cho quản ngục tới có chiếc đẹp. Tư thế khúm núm, thái độ và hành động bên bên cạnh có vẻ ủy mị lúc lắng nghe lời khuyên của Huấn Cao đã làm cho sáng lên vẻ đẹp nhân phương pháp của ngục quan, làm cho cho nhân vật trở nên đáng quý, đáng trân trọng. Đặc biệt, ông còn cúi đầu thành kính đón nhận lời khuyên của ông Huấn. Ông cúi đầu nhưng ko hề trở nên hèn kém mà trái lại, nó còn làm cho cho ông trở nên cao thượng hơn bao giờ. Nguyễn Đăng Mạnh từng cho rằng: “Có những chiếc cúi đầu làm cho cho con người trở nên hèn hạ, có những chiếc cúi lậy làm cho con người trở nên đê tiện. Nhưng cũng có những chiếc cúi đầu làm cho con người trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy là chiếc cúi đầu trước chiếc tài, chiếc đẹp, chiếc thiên lương”. Và chiếc cúi đầu của quản ngục cũng thực cao đẹp chẳng khác nào chiếc cúi đầu của Cao Bá Quát lúc xưa: “Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” (Cả đời sinh ra chỉ để cúi đầu trước hoa mai). Ví dụ Huấn Cao là nơi nhà văn gửi gắm những quan niệm thẩm mĩ tiến bộ thì quản ngục là nơi nhà văn gửi những quan niệm nhân sinh sâu sắc: Bản thân từng con người luôn khao khát và hướng về chiếc đẹp. Bởi vậy, cần biết nhìn sâu vào tâm hồn con người để nắm bắt ánh sáng của thiên lương. Và hơn cả, chiếc đẹp “man mác khắp vũ trụ”, nó tồn tại ngay cả trong chiếc ác để đẩy lùi bóng tối, hướng con người tới cuộc sống phải chăng đẹp hơn.

Cảnh tượng đẹp nhất trong “Chữ người tử tù “chính là cảnh cho chữ – 1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có bao giờ, đặc biệt là trong hoàn cảnh đề lao, nơi “người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”, chiếc đẹp vẫn ngang nhiên được sinh thành. Ta ngỡ ngàng lúc thấy “1 người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”. Bóng tối của nhà tù thực dân đã bị đẩy lùi bởi ánh sáng của tài hoa, thiên lương, nhường chỗ cho chiếc đẹp được sinh thành. Loại đẹp đã phát triển thành tác nhân làm cho đảo lộn ý thức xã hội, nó được khai sinh trên 1 mảnh đất chết, từ bàn tay của người tử tù sắp chết nhưng vẫn phát lộ rực rỡ và có sức cảm hóa mãnh liệt. Lời khuyên của quản ngục dành cho người tử tù đã mô tả 1 quan niệm sâu sắc về nghệ thuật: Loại đẹp ko bao giờ chung sống có chiếc ác, mãi mãi là như vậy. Đấy cũng là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân về sức mạnh của chiếc đẹp, chiếc đẹp sẽ cứu rỗi thế giới này!

Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Đọc văn Nguyễn Tuân bao giờ người ta cũng thấy 1 hứng thú đặc biệt: sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong xem, sự hành văn 1 phương pháp hoàn toàn Việt Nam”. Thực vậy, chiếc hứng thú đặc biệt đó ko chỉ toát lên từ tác phẩm mà còn toát lên từ hình thức nghệ thuật độc đáo. Ông dùng bút pháp tương phản để dựng lên sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, để tô đậm sự thắng thế của chiếc đẹp trong cuộc đời. Ai ấy đã cho rằng “ngôn ngữ của Nguyễn Tuân tuôn ra như muốn thi tài có hóa công”. Nhà văn có văn phong “đặc Việt Nam” (Vũ Ngọ) đó đã khéo léo dùng những từ Hán Việt để tạo màu sắc sắc cổ kính, trang nghiêm cho tác phẩm, để “Chữ người tử tù” phát triển thành 1 trong những” nén tâm hương nguyện cầu cho chiếc đẹp cổ truyền Việt Nam” (Văn Tâm). Câu chuyện như 1 thước phim quay chậm, người đọc như được chứng kiến tận mắt ánh sáng được nhen lên, tỏa sáng và che đi bóng tối. Và những nét chữ hiện hình “như 1 nét bút trác tuyệt được chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn từ”.

“Chỉ người suy xét đọc Nguyễn Tuân new thấy thú vị, bởi văn Nguyễn Tuân ko cần thứ văn để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan). Bởi vậy, lúc tới có chữ người tử tù, hãy từ từ đón nhận ánh sáng của chiếc đẹp để thanh lọc tâm hồn, để thấu hiểu và cảm nhận…” Chữ người tử tù ko chỉ “vang bóng 1 thời” mà còn vang bóng mãi muôn sau.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 7

Sinh ra và lớn lên trong 1 gia đình nhà Nho hiếu học, Nguyễn Tuân đã dành cả cuộc đời mình để săn tìm chiếc đẹp hướng tới chân – thiện – mỹ. Ko thể phủ định được những đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Việt Nam tiên tiến. Tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng 1 thời” là truyện ngắn đặc sắc đánh dấu thiên tài nghệ thuật của Huấn Cao trước phương pháp mạng tháng 8 và được coi là 1 tác phẩm sắp như đạt tới độ hoàn mĩ.

Tại cuối tác phẩm, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đậm vẻ đẹp của người anh hùng Huấn Cao, qua chi tiết ấy tác giả muốn khẳng định sự thắng lợi của thiên lương. Có thể nói đây cảnh tượng đắt giá nhất xưa nay chưa từng có.

Chúng ta có thể thấy, từ xưa tới nay chơi chữ là thú vui tao nhã, thanh cao của những người có học thức, những sĩ tử,… Những câu đối, châm ngôn cuộc sống, bài thơ nức tiếng được những người nghệ sĩ thư pháp uyển chuyển viết lên giấy giúp cho tâm hồn của con người được thư thái. Chơi chữ chính là nói lên chiếc đẹp, thiên tài và trí tuệ của con người. Chúng ta sẽ thường bắt gặp cảnh cho chữ được diễn ra trên những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc, rồi từ ấy có những nét chữ uyển chuyển trong ấy có cả chiếc hồn riêng được ra đời. Nhưng có sự sáng tạo của Nguyễn Tuân thì cảnh cho chữ là 1 cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn mực xã hội xưa cũ và cho tới trên sự thật} chúng ta vẫn gọi ấy là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nhưng chính chi tiết lạ lùng đó đã làm cho cho giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm được nâng lên, từ ấy tạo nên sức lôi cuốn và hấp dẫn cho bạn đọc.

Ko gian và thời kì trong cảnh cho chữ được tác giả miêu tả siêu sinh động và chân thực. Vào 1 đêm khuya vắng lặng, lúc bóng tối đã bao trùm và thống trị nơi đây. Cùng có tiếng gõ mõ vọng cạnh, nhà tù đã hiện lên 1 phương pháp chật hẹp, tù túng, ẩm thấp, mệt mỏi và những tiếng thở dài bất lực trước xã hội đương thời. 1 nghệ sĩ tài hoa, uyên chưng giờ đây lại bị giam trong nhà tù tăm tối, thế nhưng tại chính nơi hạ đẳng, tăm tối ấy lại xảy ra 1 cảnh tượng làm cho rung động trái tim của những con người tài hoa chân chính.

1 ko gian tăm tối ko thể thấy ánh mặt trời dù là ngày hay đêm, trong khuôn cảnh như vậy có bố người “đang chăm chú trên 1 tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ngay lúc này buồng gian ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc tẩm dầu”, họ đang chăm chú có niềm vui vẽ dâng trào để tạo nên 1 tác phẩm hoàn mỹ. Sự đối lập về vị thế giữa Huấn Cao – người cho chữ và người nhận chữ – viên quản ngục, tác giả đã khắc họa sắc nét, sinh động từng hành động, cử chỉ và thái độ của 2 nhân vật này. Chỉ qua 1 chi tiết bé này thôi tác giả đã bộc lộ hết những phẩm chất phải chăng đẹp của con người nơi tăm tối.

Có lẽ vì đứng trước chiếc đẹp nên những cảnh tượng xung quanh đang diễn ra bỗng nhiên như chậm lại, khiến cho cho trái tim con người rung động, như có 1 thứ gì ấy bóp nghẹt, ko ai nói có nhau câu nào nhưng vẫn đủ để cảm nhận được niềm vui vẽ, vui sướng đang tuôn trào trong lồng ngực của từng con người thương chiếc đẹp nơi tù túng này. Ta có thể thấy lạ, là 1 viên quản ngục “quyền cao chức trọng” nhưng lại cúi đầu trước 1 người tù, thực chất viên quản ngục đang cúi đầu trước chiếc vẻ đẹp tài hoa và người tử tù có tấm lòng thiên lương trong sáng. Lúc nét chữ cuối cùng đã viết xong Huấn Cao thở dài buồn bã, ông khuyên viên quản ngục nên đổi nghề và đổi chỗ trên để có thể giữ cho thiên lương trong sáng, thức tỉnh và cứu rỗi tâm hồn viên quản ngục đang bị tha hóa, rối ren, rơi vào nơi vấy bẩn của xã hội. Trước những lời khuyên ấy, viên quản ngục đã xúc động, cảm kích và kính trọng Huấn Cao, những giọt nước mắt lăn dài trên mẹ ông chính là những giọt nước mắt mô tả sự tiếc thương cho số phận người anh hùng đầy khí phách Huấn Cao.

Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, tác giả Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của chiếc đẹp thiên lương, trên bất cứ đâu, cho dù là nơi tối tăm nhất thì chiếc đẹp vẫn tồn tại, thậm chí là tồn tại ko đơn độc. Nó như 1 sức mạnh vô hình chỉ đường dẫn lối cho những người phải chăng có tấm lòng nhân hậu đang bị lạc nơi bóng tối bao trùm và tội ác hoành hành trở về đúng con đường chân chính, tươi đẹp. Người đọc có thể cảm nhận được rằng tác giả là người giàu tri thức, có sức tưởng tượng cô cùng phong phú và độc đáo. Chính vì vậy mà tác giả có thể vẽ nên 1 bức tranh có 2 mảng màu sắc sáng tối đối lập nhau homosexual gắt, 1 bên là màu sắc của khuôn cảnh tăm tối nơi ngục tù, 1 bên là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.

Kết tinh bởi thiên tài, sáng tạo và tư tưởng độc đáo Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho chữ thành cảnh tượng chưa nay chưa từng có. Tác phẩm đã mô tả sự tiếc nuối của chính tác giả và người đọc trước số phận của những con người thương chiếc đẹp, luôn hướng tới chiếc chân – thiện – mỹ. Xen vào ấy, tác giả đã khéo léo bày tỏ tấm lòng của mình 1 phương pháp kín đáo, tiếc thương trước số phận người anh hùng nhân hậu, khí phách và có nhân phương pháp cao thượng.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 8

Trong những sáng tác của Nguyễn Tuân, những nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như 1 nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng phương pháp nhìn nhận như vậy. Ngoài ấy, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên 1 vấn đề truyện vô cùng độc đáo. Đấy là cảnh cho chữ trong nhà giam- là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Đoạn cho chữ nằm trên phần cuối tác phẩm, trên vùng vị trí này vấn đề truyện được đẩy lên tới đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong ấy có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ ấy toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.

Sau thời điểm nhận được công văn, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự của mình có thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để nói rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm ấy, trong 1 buồng tối chật hẹp có ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc tẩm dầu, “1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm tới} những nơi có ko gian đẹp, thoáng đãng , yên tĩnh. Nhưng trong 1 ko gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời kì trên đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh đó thì “1 người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Trong lúc đó, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển động.trên đây cho thấy dường như trật tự động xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ cần hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại phát triển thành người răn dạy, ban phát chiếc đẹp.

Đây quả thực là 1 cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao – người có tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại – những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thực đặc biệt: 1 bên là kẻ phản nghịch cần lĩnh án tử hình (Huấn Cao) và 1 bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ trên 2 phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thực là chua xót vì đây là lần trước tiên nhưng cũng là lần cuối cùng bố con người đó gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau có con người thực, ước muốn thực của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã dùng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm cho câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Loại hỗn độn, xô bồ của nhà giam có chiếc thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm cho nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so có bóng tối, chiếc đẹp so có chiếc xấu và chiếc thiện so có chiếc ác. Vào lúc đó, từ 1 quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy trên chốn ngục tù tối tăm, chiếc đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… trên đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: chiếc đẹp thắng lợi chiếc xấu xa, thiên lương thắng lợi tội ác. Đấy là sự tôn vinh chiếc đẹp, chiếc thiện đầy ấn tượng.

Sau thời điểm cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ trên” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ cần giữ được thiên lương. Trong môi trường của chiếc ác, chiếc đẹp khó có thể bền vững. Loại đẹp có thể phát sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của chiếc ác( cho chữ trong tù) nhưng ko thể chung sống có chiếc ác. Nguyễn Tuân nhắc tới thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận ko chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chứ ko mấy ai thấy, cảm nhận mùi vị thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Loại gốc của chữ chính là chiếc thiện và chơi chữ chính là mô tả phương pháp sống có văn hóa.

Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản ngục xúc động “ vái người tù 1 vái, chắp tay nói 1 câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của 1 nhân phương pháp cao cả và thiên tài xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục tới 1 cuộc sống của chiếc thiện. Và trên con đường tới có chiếc chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khuôn cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những chiếc dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời mô tả 1 niềm tin vững vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân – thiện – mĩ.

Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến cho ông chú ý chỉ là chiếc đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi chiếc đẹp nhưng chiếc đẹp bao giờ cũng gắn có chiếc thiện, thiên lương con người. Ý kiến này đã chưng bỏ định kiến về nghệ thuật trước phương pháp mạng, Nguyễn Tuân là 1 nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo ý kiến nghệ thuật vị nghệ thuật. Ngoài ấy, truyện còn ca người viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới chiếc thiện. Qua ấy còn mô tả tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối có những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí cổ xưa của nhà văn.

“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, thiên tài và nhân phương pháp cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dòng chữ cuối cùng của đời người có ý nghĩa truyền lại chiếc tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và tương lai. Ví dụ ko có sự truyền lại này chiếc đẹp sẽ mai 1. Đấy cũng là tấm lòng muốn giữ gìn chiếc đẹp cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng tới 1 đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: 1 buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “bố chiếc đầu đang chăm chú trên 1 tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự động miêu tả cũng mô tả tư tưởng 1 phương pháp rõ nét: từ bóng tối tới ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn tới chiếc đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo ko khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ dùng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” chiếc cổ xưa bằng kĩ thuật tiên tiến như bút pháp tả thực, phân tách tâm lí nhân vật.( văn học cổ nói chung ko tả thực và phân tách tâm lí nhân vật)

Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh thiên tài, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối có những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân phương pháp cao thượng. Đan xen vào ấy tác giả cũng kín đáo bày tỏ chiếc đau xót chung cho chiếc đẹp chân chính, thực sự đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp 1 tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 9

Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nghiệp sáng tác của ông chia thành 2 giai đoạn trước phương pháp mạng tháng 8 và sau phương pháp mạng tháng 8. Trước phương pháp mạng, ngòi bút của ông thiên về phương châm “Vang bóng 1 thời-trụy lạc-xê dịch”. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là tác phẩm kiệt xuất trước phương pháp mạng tháng 8, đã khắc họa thành công hình ảnh Huấn Cao, 1 kẻ sĩ tài hoa, có tấm lòng thẳng thắn.

Huấn Cao là 1 kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của triều đình, ông bất chấp hầu hết để chống lại triều đình phần nát, thối rữa. Huấn Cao trong mắt của bọn lính là 1 kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề phòng. Đối có thầy thơ thì ông “văn võ đều có tài cả, chà chà” còn đối có người quản ngục thì Huấn Cao là người “chọc trời khuấy nước”, coi thường tiền bạc và bạo lực. Sở hữu những phương pháp nhìn đó, Huấn Cao là 1 người tài bố trong mắt của mọi người, là 1 kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.

Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao bộc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều siêu thoát phàm, siêu độc đáo. Là 1 kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét lên có bất cứ ai. Ko cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho cho mọi người nể phục.

Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết tới là kẻ sĩ tài hoa, người đời mến mộ bằng chiếc tên “chiếc người mà vùng tỉnh Sơn đã khen chiếc tài viết chữ siêu nhanh và siêu đẹp..” Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sùng bái và ngưỡng mộ như vậy. Chữ của ông như “1 báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ của ông chính là sở hữu 1 vật báu trong thiên hạ. Huấn Cao ko biết ông quản ngục luôn có 1 ước mong được sở hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ của ông viết trên trong nhà, chữ ông Huấn Cao đẹp và vuông nhiều. 1 con người tài đức vẹn toàn, 1 con người ko chỉ tài hoa mà còn có chiếc tâm siêu trong sáng và ngay thẳng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép mình viết bao giờ” Đây là cốt phương pháp thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người thực sự xứng đáng, những người có thể khiến cho ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất.

Nguyễn Tuân thực sự siêu tài, tài tới nối đọc từng câu từng chữ của ông người ta cứ ngỡ như ông đang vẽ nên 1 bức họa thực sinh động giữa chốn nhân gian về 1 kẻ sĩ đáng trọng như Huấn Cao.

Huấn Cao còn là 1 người trân trọng tình bạn, mến mộ những con người có “chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời nói của viên thơ lại, ông đã biết được tấm lòng của viên quản ngục và ngưỡng mộ trước tấm chân tình cũng như sự yêu mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người có thú vui thanh tao giữa chốn nhơ bẩn này “Ta cảm chiếc tấm lòng biệt nhỡn liên tài của những ngươi. Nào ta biết đâu 1 người như thầy quản mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất 1 tấm lòng trong thiên hạ”. Chỉ 1 cụm từ “phụ 1 tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao đã khiến cho cho người đọc ko thể nén được cảm xúc. 1 con người biết trân trọng chiếc đẹp, hướng về chiếc đẹp, ấy là 1 lối sống hướng tới vẻ đẹp “Chân-Thiện-Mỹ”.

Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên trên cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó quên nhất trong tác phẩm. 1 cảnh tượng khiến cho cho người đọc nhớ mãi. Cảnh cho chữ diễn ra ko cần trên 1 nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục tù, là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Hình ảnh bố con người hiện lên trong cảnh tượng đó thực đẹp, thực lung linh, họ ko còn là người tù, viên quản ngục nữa mà là những người thương chiếc đẹp, tâm đắc có chiếc đẹp. Cảnh cho chữ đó thực thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những con người thương chiếc đẹp, yêu chiếc vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao vướng xiềng xích, bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái lạy” Huấn Cao và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ảnh lúc gấp trang sách lại. Thời khắc mong manh giữa sự sống và chiếc chết khiến cho cho người kẻ sĩ đó thêm kì vĩ, lóng lánh hơn. Kẻ tử tù ko thể có cốt phương pháp như vậy, chỉ có anh hùng new xứng đáng có cốt phương pháp đó. Và Huấn Cao là 1 đấng anh hùng như vậy.

Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn Tuân thực sự khiến cho cho người đọc ko thể đi mắt khỏi trang viết. Huấn Cao là biểu tượng của chiếc đẹp vĩnh cửu, của những gì hoàn hảo và kiên trung nhất. 1 con người “khó tìm kiếm” trong thiên hạ.

Thực vậy, gấp trang sách lại nhưng hình ảnh Huấn Cao vẫn hiện hiển trong trí óc của người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang bất khuất giữa chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 10

Nguyễn Tuân là 1 nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam tiên tiến. Nói tới Nguyễn Tuân là nói tới 1 nghệ sĩ tài hoa. Người ta thấy dưới ngòi bút của ông lời văn hiện lên đều là những nét bút trác tuyệt như 1 nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ. 1 trong những nét bút trác tuyệt ấy là tác phẩm Chữ người tử tù. Hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – 1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã được tác giả xuyên suốt trong đoạn trích.

Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in 5 1938 trên tạp chí Tao Đàn, tiếp theo được tuyển in trong tập truyện Vang bóng 1 thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Nhân vật chính trong Chữ người tử tù là Huấn Cao, 1 nhân vật điển hình trong những tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Phương pháp mạng. Đấy là những người tài hoa, bất đắc chí. Họ ko chỉ có tài mà còn có chiếc tâm trong sáng, mặc dầu chí ko thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.

Đoạn trích Chữ người tử tù là 1 câu chuyện về 1 viên quản ngục mến mộ thiên tài, nhất là tài viết chữ Hán đẹp, nhưng éo le thay đổi cho số phận lại là 1 người bị án tử hình (chém), trước chiếc tài, chiếc đẹp viên quản ngục đã bí mật đối đãi trân trọng bởi tử tù có mong ước xin được chữ quý. Khiến mọi phương pháp để xin chữ nhưng do Huấn Cao – tử tù tưởng viên quản ngục là người xấu nên đã ko cho, cao trào đoạn trích dâng cao lúc tử tù bị mang trong mình ra pháp trường thì ông lại được tử tù cho chữ và những lời khuyên đáng trân trọng trong cuộc sống.

Vấn đề truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo ra cho câu chuyện thêm đặc sắc. Nguyễn Tuân đã xây dựng nên 1 vấn đề truyện tưởng như éo le nhưng chính chiếc eo le đó lại mang trong mình lại tính kịch tính của câu chuyện giữa nhân vật này có nhân vật khác, giữa nhân vật có hoàn cảnh để làm cho hiện lên những nét đẹp của con người tài đức.

Bằng ngòi bút văn học lãng mạn tức là mô phỏng theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Vì vậy nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Trong đoạn trích này, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình ảnh nhân vật Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Tác giả để nhân vật chính hiện lên gián tiếp thông qua cuộc đối thoại giữa viên thơ lại và quản ngục. Tuy hiện lên gián tiếp nhưng có thể thấy được vẻ đẹp của Huấn Cao là 1 vẻ đẹp của người văn võ toàn tài, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Loại tài của Huấn Cao được tô đậm bằng việc viết chữ đẹp, mà người ta thường có câu “nét chữ nết người”. Nét chữ của ông “đẹp nhiều, vuông nhiều” khiến cho nhiều người mơ ước có được. Vì vậy từng con chữ là 1 tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Nó là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Từng con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao mô tả nhân phương pháp Huấn Cao. Nó quý giá ko chỉ vì được viết siêu nhanh, siêu đẹp, đẹp nhiều, vuông nhiều mà trước hết vì ấy là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của 1 đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã phát triển thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi hầu hết, nói cả sự hello sinh về lợi quyền và sinh mệnh của mình.

Bên cạnh tài cao, ông còn là 1 người có tấm lòng trong sáng, cao quý. Dù rằng có tài, và nhiều người sẵn sàng sắm chữ của ông, nhưng ông cũng ko bán. Ông chỉ cho chữ, lúc người ấy thực sự đáng kính, đáng tôn và cũng cần có vẻ đẹp, biết trân trọng chiếc Thiện, chiếc Mỹ.

Tính phương pháp của Huấn Cao như vậy, nên lúc viên quản ngục có ý định xin chữ, và đối phải chăng có ông, ông luôn tỏ ra bất cần và ko chú ý. Tưởng như quản ngục là 1 người làm cho việc ko phải chăng và là bè lũ tay sai của bọn quan lại tham ô, hối lộ, okay xứng đáng làm cho quan. Thế nhưng, ngược lại quản ngục lại hiện lên trước mắt người đọc là 1 nhân vật lương thiện, biết phân biệt đẹp phải chăng, có thú chơi tao nhã: chơi chữ. Sở nguyện cả đời của ông là có được đôi câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trang trọng trong nhà. Loại sở nguyện này mạnh mẽ vượt qua cả nỗi sợ hãi, bất chấp mọi nguy hiểm tới bản thân, làm cho đảo lộn trật tự động trong tù, biến 1 phạm nhân có án tử hình thành 1 thần tượng để mình tôn thờ.

Thế nhưng, lúc biết được sự lương thiện và ước mong chính đáng, biết quý trọng chiếc đẹp Huấn Cao liền cho quản ngục chữ. Loại hay trên đây là, người ta thường thấy cảnh cho chữ diễn ra trên khuê phòng, người cho chữ trong tâm trạng thoải mái. Nhưng trên đây, Huấn Cao lại là người tử tù, ngày mai bị mang trong mình ra pháp trường xử chém. Trong lúc, ko gian lại chật hẹp, toàn mùi vị phân gián, phân chuột, ngọn đuốc cháy phập phồng trong đêm. Bất chấp điều đấy, 1 cảnh tượng đẹp được hiện lên ấy là cảnh cho chữ của những con người biết hướng về chiếc đẹp, quý trọng vẻ đẹp chân chính. Vẻ đẹp hài hòa giữa chiếc Tài có chiếc Tâm. Có thể nói, cảnh tượng cho chữ ngày xưa nay chưa từng có. Sau thời điểm cho chữ, Huấn Cao còn khuyên quản ngục về quê sống, hạn chế xa những nơi bon chen, cuộc sống lấm lem, ko hợp có những người thích chơi chữ như quản ngục. Trong những con người đó lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng chiếc đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục – 1 kẻ nhầm đường, lạc lối.

Cũng qua đây tác giả cũng khẳng định rằng chiếc đẹp có thể tồn tại trên mọi nơi, mọi lúc, thắng lợi mọi chiếc xấu, chiếc ác. Và chiếc đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại sắp nhau hơn. Loại đẹp sẽ ko mất đi ngay cả lúc nó bị vùi dập. Đấy là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Xem Thêm  1 số bài lớnán giả thiết tạm lớp 5 Bài tập Lớnán 5

Phân tách truyện Chữ người tử tù toàn bộ nhất

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 1

Nguyễn Tuân sinh 5 1910 trên làng Nhân Phần, tục gọi là làng Mọc, thuộc Hà Nội. Ông là người có bản lỉnh cứng cỏi trong đời sống và trong sáng tác văn học; hiểu biết rộng, quý trọng thiên tài, coi trọng nghề nghiệp, có những sáng tạo độc đáo trong lời văn cũng như trong cảm nghĩ. Sự nghiệp văn học của ông gồm 2 giai đoạn. Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945: Vang bóng 1 thời (1940), Tùy thuộc} bút I (1941), Tùy thuộc} bút II (1943). Sau 1945: Tình chiến dịch (1950), Tùy thuộc} bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), 1 số bài phê bình và giới thiệu chân dung văn học. Nguyễn Tuân có những đóng góp đáng nói cho nền văn xuôi tiên tiến, nhất là trên thể loại tùy thuộc} bút, trên cảm thụ sâu sắc và trên văn phong cẩu kì, đa dạng như 1 ống kính trăm màu sắc.

Chữ người tử tù là câu chuyện về 1 viên quản ngục mến mộ thiên tài, nhất là tài viết chữ Hán đẹp nức tiếng của 1 người tù án chém, ông ta đã bí mật đối đãi trân trọng người tù có mong ước xin được chữ quý. Cuối cùng, tưởng đã hết hello vọng xin chữ thì ông lại được người tù vui vẻ cho chữ, kèm.

Theo lời khuyên hãy bỏ nghề coi ngục, về quê sống thanh bần để giữ được tâm hồn trong sạch, xứng có thú chơi chữ đẹp. Thông qua câu chuyện đó đặc biệt là cảnh cho chữ ban đêm trong ánh đuốc đỏ rực, tác giả muốn nêu bật giá trị cao, quý của Loại Đẹp: đẹp chữ viết, đẹp đức cao, đẹp nhân phương pháp. Đồng thời ca ngợi người biết quý trọng gìn giữ Loại Đẹp đó như 1 báu vật trên đời mà ngọc vàng, quyền thế cũng ko sao đổi được.

Người đọc ngày nay tìm hiểu văn chương xưa bao giờ cũng cần vượt qua 1 cửa ải khó khăn. Đấy là vốn văn hoá, lịch sử làm cho nền cho tác phẩm. Nói về phong kiến là nhắc tới vua quan và dân đen, địa chủ và nông dân. Nói về đạo Nho là nhắc tới cương thường, trên trí quân, dưới trạch dân. Nói về đạo Phật là nhắc tới luân hồi, từ bi… thì có thể cũng hiểu được sơ sơ đôi chút, nhưng trước những siêu phẩm vật chất và tinh thần của văn hóa phong kiến phương pháp đây trên 1 thế kỉ được để cập tới trong truyện ngắn này thì quả thực ko dễ hiểu chút nào.

Chữ người tử tù rút từ tập truyện Vang bóng 1 thời. Như tựa đề, ấy là cuốn sách ghi chép về 1 thời và 1 lớp người đã tàn trong quá khứ, mà bóng dáng hãy còn in đậm trong trí nhớ, trong sự kính phục, tôn sùng của tác giả.

Nguyễn Tuân có dụng ý rõ ràng lúc dựng lại 1 ko khí xưa cũ như thế trên truyện Chữ người tử tù. Cảnh vật, con người, sự việc hiện ra cũng đậm màu sắc sắc đó, đưa chúng ta trở lại quá khứ phương pháp đây hơn trăm 5.

Mở đầu, nội dòng chữ: phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, muốn hiểu cho thấu ngọn ngành, e tới bạc tóc. Bình thường, người ta viết là tờ trát, lá trát, nhưng tác giả vẫn để nguyên phương pháp gọi của thời ấy có nghĩa nghiêm trọng là phiến trát Còn tại sao ông ko viết: của quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường theo kết cấu Hán văn y như trong phiến trát để cho nó giữ nguyên chiếc tính chất quan yếu, dậy mùi vị quyển lực ngay trong từng chữ… Đốc bộ đường là chữ dùng để chỉ chức vụ Tổng đốc. Lại thêm tên gọi tắt của bố tỉnh Sơn (Sơn Tây), Hưng (Hưng Hóa), Tuyên (Tuyên Quang) vì hồi đó, tỉnh bé đứng đầu chi là chức Tuần vũ, 2 hay bố tỉnh bé hợp lại new có chức Tổng đốc trùm lên trên – bố tỉnh này đặt chung dưới quyền cai trị của 1 Tổng đốc. Mệnh lệnh từ dinh quan Tổng đốc phát ra cho cấp phủ, cấp huyện là siêu uy nghi.

Người cầm bút mượn chữ xưa mà khơi dậy chiếc ko khí, khuôn cảnh của 1 thời. Tả cảnh vật thì vọng canh (vọng canh là cái chòi canh được dựng khá cao để có thể trông xa (vọng), cái hèo hoa, giá gươm, án thư, con music, giấy bản, ty Niết, tàn đồn, cái gông, chậu mực, bức châm… Tả người thì thầy bát, ngục phải chăng, thằng thập, thủ xưởng… Tả việc thi cho chữ, thay đổi bút con, đề xong lạc khoản, lĩnh ý, bái lĩnh… Đằng sau chữ nghĩa đó là cà 1 nền văn hóa xưa mà truyện này chi xén ra có 1 mảnh, đủ đưa người đọc vào ko khí của 1 cửa ngục tiêu biểu cho triều đình thời đó, đầy quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau hủy diệt nhân phương pháp và đức tài. Might mà trong ấy còn nổi lên dè dặt mà sâu thiết 1 tấm lòng biết quý trọng, tôn kính chiếc đẹp của đức độ, tài bố. Những điều chứa chất bên trong nội dung của truyện đã chinh phục được người đọc. Đấy là điều đáng chú ý trước tiên.

Cốt truyện Chữ người tử tù xoay quanh tài viết chữ đẹp của người tù án chém. Ý nghĩa dĩ nhiên có thể mở rộng ra nhiều, nhưng ấy là chiếc cốt lõi. Có bố hạng người và bố thái độ trước chiếc đẹp đó. Thái độ thứ 1 là hủy diệt; thái độ thứ 2 là kính trọng, mến phục; thái độ thứ bố là đại lượng, trọng mình, trọng người của 1 bậc chính nhân quân tử. Đan dệt trong truyện là bố thái độ đối có chiếc đẹp.

Nói chủ đề của truyện là tôn vinh chiếc đẹp e hồ đồ chăng? Loại đẹp đó trên chữ viết của người tử tù là điểu khỏi bàn cãi. Viên quản ngục đã nghe cả vùng tỉnh Sơn vẫn khen chiếc tài viết chữ siêu nhanh và siêu đẹp của người tù này. cố nhiên tài viết chữ đó gắn liền có 1 chiếc tên cụ thể là Huấn Cao. Ông quan họ Cao có thời làm cho huấn đạo trên tỉnh Sơn Tây, nơi mà viên quản ngục gọi thân mật là tỉnh Sơn Tây. Ông Huấn Cao đó trên sự thật} tiếng tăm lại đứng đầu trong danh sách 6 tử tù phạm tội phản nghịch, dám cầm gươm chống lại triều đình. Lời văn chỉ nói có thế, còn nhân vật Huấn Cao có cần là Cao Bá Quát nức tiếng thơ hay chữ đẹp, lại có thời kì bị triều đình đầy đi giữ chức giáo thụ trên phủ Quốc Oai tỉnh Sơn và đã cùng nông dân nổi lên chống vua quan hay ko, thì chẳng biết. Đấy là chỗ kín nhiệm của ngòi bút, chỗ để trăng ẩn vào mây như phương pháp nói của người xưa. Ví dụ có gì trùng hợp thì cũng coi như là ngẫu nhiên vậy.

Lẽ thường, trên đời chiếc gì đẹp cũng quý bởi nó làm cho cho cuộc sống thêm tươi vui, ý nghĩa. Chữ đẹp cũng thế. Chữ đây là chữ Hán ngày xưa, 1 loại chữ tượng hình, những nét được phương pháp điệu hóa trải qua đời thành 1 nghệ thuật viết chữ có phép tắc hẳn hoi (thư pháp). Sách xưa của ta và của Trung Quốc đều nhắc tới thiếp Lan Đình của Vương Hello Chi là nhắc tới mẫu chữ đẹp nức tiếng, đổng thời cũng ghi chép sự xuất hiện của nhiều trường phái viết chữ Hán. Thuở xưa, trong những nhà giàu sang, nhất là nhà có học, thường treo nhiều hoành phi, câu đối, bức châm, bức trướng… bằng lụa bạch, bằng giấy dày in hoa, bằng gỗ sơn son thiếp vàng hoặc khảm xà cừ. Nhất là bức châm, bộ tứ bình lụa bồi thành tranh có chữ viết kiểu đới thảo chép những lời văn, những bài thơ Đường của bạn bè tri kỉ treo trong nhà là điều hãnh diện vinh dự, là bảo vật còn quý hơn vàng ngọc.

Chữ đẹp là 1 chiếc đẹp hiếm có trên đời nhưng éo le thay đổi, nó lại là của người tù mang trong mình án tử hình, nghĩa là người đó chết thì nó cũng mất theo. Nguy cơ mất 1 báu vật trong thiên hạ đã rõ ràng. Châu ngọc còn tìm ra, chứ nét chữ rồng bay phượng múa đó, nét chữ mà cả 1 tỉnh đều ca ngợi thì tìm trên đâu ra? Điều ấy khiến cho cho vẻ đẹp của nó bỗng như lóng lánh thêm.

Loại hoa tay viết chữ đẹp đó còn đi kèm có phẩm phương pháp cao thượng lạ kì. Nhà văn có nhắc tới chiếc tài bẻ khóa vượt ngục của người tù vững chắc là để tô đậm tài võ không tính tài văn. Xin đừng vội cho ấy là hạ cấp. Bẻ khóa vượt ngục, dám làm cho giặc chống vua quan tàn bạo, cứu khổ dân lành thì ai dám bảo ấy là điều đáng chê? Viên quản ngục lễ phép nói lời kính phục người tù là người có nghĩa khí; 1 gọi ngài, 2 gọi ngài, ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết… nhất định ko cần chi vì nghe chiếc tên Huấn Cao và nhớ tới tiếng đồn chữ đẹp, mà đã từng nghe, từng nghĩ nhiều điều khác nữa về con người đó: Những người chọc trời khuấy nước, tới trên đầu người ta, người ta cũng chẳng còn biết có ai nữa… Tại nhân vật Huấn Cao, tâm hồn cũng đẹp, nhân phương pháp cũng đẹp, hành động cũng đẹp, nhưng hầu hết đều ẩn kín sau nét chữ đẹp. Những nét đẹp kia là đẹp đạo đức, còn đẹp chữ viết new là nghệ thuật. Nghệ thuật hay và đẹp, ko ai ko đam mê, ngưỡng mộ. Nguyễn Tuân lấy nó làm cho cốt truyện là vậy.

Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đề cập tới bố thái độ đối có Loại Đẹp.

Thái độ thứ 1 là hủy diệt.

1 số kẻ được miêu tả trong truyện nhưng ấy là hạng thiên lôi chỉ đâu đánh ấy, sống nhiều ngày trên chốn tù ngục nên nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Đấy là bọn lính tráng, những thằng thập, thằng cửu, lính canh, lính coi tù. Lối sống của chúng là sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Chúng là 1 đống cặn bã, 1 lũ quay quất Thấy đám tử tù bảo nhau quỳ xuống đất để thúc mạnh cái gông vào thềm đá cho rệp rơi bớt ra, 1 tên trong lũ lính áp giải đùa 1 câu độc miệng: Những người chả cần tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn những người ra làm cho trò trên pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Nó nói tiếp, giọng hách dịch: Đứng dậy ko ông lại phết cho mấy hèo trên sự thật}. Cũng giọng đó, hắn nhắc viên quản ngục lúc thấy ông này lộ vẻ kiêng nể và có biệt nhỡn đối có Huấn Cao: Tên đó chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Thói sai nha nó vậy. Chốn đó tất nhiên đẻ ra giống người đó. Giá ai có tấm lòng trong sạch thì cũng khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất cả chiếc đời lương thiện đi. Lời ông Huấn Cao khuyên viên quản ngục trên cuối truyện chỉ nhắc lại 1 sự thực vĩnh hằng trên cửa ngục của giai cấp thống trị thời suy thoái. Nhà thơ Cao Bá Quát có bài thơ nói về chiếc gông: Mày chỉ biết gông người chứ mày biết gì cần trái, biết gì phải chăng xấu trên đời, đúng là để ám chỉ bọn đầu trâu mặt ngựa này. Những người tù kia, dù là Huấn Cao hay là quan gì đi nữa, dù chí cao tài cả tới đâu chăng nữa, đối có chúng chi là những tên tù, lại là tử tù, thì chúng chi nói bằng hèo, bằng tay thước, bằng thanh quất, bằng gươm. Chúng chỉ tuân thủ 1 mệnh lệnh là tiêu diệt.

1 loại người nữa tuy ko có mặt trong truyện nhưng lại là những tên tai lớn mặt lớn, ra lệnh từ xa. Đấy là Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, là Hình bộ Thượng thư trong kinh, là ty Niết, hoặc trừu tượng hơn nhưng kinh khủng hơn, là triều đình quốc gia… Vô hình, nhưng chính nó new là bộ máy hủy diệt. Thiên tài, đức hạnh, tiết tháo, khí phách, lo nước, lo dân, văn tài, nghệ thuật… nó ko cần. Nó chỉ cần những tên nô tì càng ngu xuẩn càng phải chăng để giúp nó giữ thực chặt chiếc ngai vàng bẩn thỉu, phần ruỗng.

Thái độ thứ 2 là thái độ quý trọng, kính phục thiên tài, nghĩa khí. Đấy là thái độ của viên quản ngục và thầy thơ lại.

Loại Đẹp ai cũng quý, nhưng cần biết là đẹp thì new biết quý. Thầy thơ lại biết Huấn Cao có cả tài văn lẫn võ, nhưng là biết qua lời viên quản ngục và ông này cũng chi nghe người ta đồn. Vậy mà, lúc hay tin 1 con người như vậy sẽ bị chém đầu thì lại thấy tiêng tiếc. Loại tính lành trời sinh, thấy tài chuyên nghiệp thì mến, khổ cực thì thương trên thầy thơ lại thuần phác này đáng quý biết bao nhiêu! Viên quản ngục thì chữ nghĩa thánh hiền có lẽ ko nhiều, nhưng trình độ học vấn mô tả trên câu cửa miệng: Có học thì như lúa như nếp, ko học thì như rơm như cỏ. Quý hơn cả là con mắt biết nhìn Loại Đẹp, coi việc thưởng thức Loại Đẹp như là 1 thú chơi thanh nhã trên đời. Nhân phương pháp của ông ta là 1 nhân phương pháp trên mức bình thường. Biết quý trọng Loại Đẹp chữ viết, Loại Đẹp khí phách, biết trân trọng hoài bão của con người có tài viết chữ đẹp, thì lại càng đáng quý! Yêu Loại Đẹp, quý Loại Đẹp, kính phục Loại Đẹp cũng làm cho cho con người đẹp lên, phẩm chất lớn hơn, cao hơn, thơm ngát.

Viên quản ngục đã bắt nguồn được tấm lòng thuần hậu của thầy thơ lại, trước hết là từ chiếc cảm tưởng tiêng tiếc hồn nhiên, rồi từ ấy khẳng định có căn cứ rằng: người đã biết kính mến lúc phách, biết tiếc, biết trọng người có tài hẳn ko cần là kẻ xấu. Ko đơn giản suy luận, mà từ bụng ta suy ra bụng người. Đấy là nhận xét người, còn bản thân mình thì ko giấu được sự kiêng nể, ý biệt nhỡn đối có Huấn Cao và lấy quyền lực của phép nước mà át tụi lính tráng quen thói lên mặt. Đắn đo mãi ông ta new dám bước vào buồng giam, khép nép thưa bày, 1 phiền ngài 2 xin ngài, để rồi cần nhận 1 câu cao ngạo như đuổi thẳng của Huấn Cao: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có 1 điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Rồi ông ta lại lễ phép lui ra có 1 câu: Xin lĩnh ý chứ ko giở trò tiểu nhân thị oai và vẫn dâng cơm rượu hậu hơn trước. Như vậy là hạ mình, hạ mình quá mức. Thông thường, lũ quan quyền từ trên tột đỉnh xuống tận lính quèn, cứ việc ra oai, nói bằng tử hình, bằng gông, bằng hèo chứ đâu nói bằng đạo lí cần trái. Nhưng viên quản ngục này đã tới có người tử tù bằng tư phương pháp của kẻ bề dưới, theo bảng giá trị thực sự của lẽ cần: người tài sơ đức thiểu kính trọng người tài cao đức cả… Huống chi ông ta lại muốn xin của người tử tù đó những nét chữ tài hoa có 1 ko 2, mà người đó chết thì nó cũng chết theo. Chơi chữ đẹp, 1 mặt đã là thú chơi tao nhã, còn giữ cho được nét chữ đẹp đó lưu lại có đời lại là 1 ý thức bảo tàng còn quá hiếm hoi trên chiếc xã hội trọng chức tước và tiền bạc hơn học vấn và văn hóa thuở bấy giờ. Thú chơi đó, ý thức đó, viên quản ngục mong ước biến nó thành hiện thực. Việc chuẩn bị ngày càng cẩn thận và sự chờ đợi từng ngày từng thiết tha. ông đã sắm sẵn chục vuông lụa trắng Mà can lại thực phẳng phiu. Chao ôi! Xin hiểu giùm cho lòng ông: Từ những ngày nào, chiếc sở nguyện của viên quan coi ngục này là có 1 ngày kia được treo trên nhà riêng mình 1 câu đối do tay ông Huấn Cao viết… Có được chữ ông Huấn mà treo là có 1 báu vật trên đời. 1 con người có tâm nguyện như vậy, trong nhân phương pháp lại ko có chỗ đáng nể hay sao?

Chưa nói ông ta lại trên vào chiếc nơi toàn là cảnh của Diêm Vương, Âm phủ: ko vạc dầu thì ngục tối, ko cưa xẻ thì gông xiềng, hành hạ, nói cả biến người tù thành ma ko đầu… Nơi đó chi có tàn nhẫn và quay quắt, nơi đó người ta vui lúc thấy máu tù nhân đổ, người ta cười lúc thấy tù nhân quằn quại. Nơi ấy ko có chỗ cho lẽ cần, tình thương, đạo lí, dù là 1 chút. Đấy vậy mà lại còn sót được 2 tâm hồn, 1 thuần hậu, 1 cao quý, thì chiếc thuần hậu cao quý đó càng đáng kính trọng biết bao! Trong bùn mà sen vẫn ngát thơm.

Tính phương pháp của thầy thơ lại và viên quản ngục bổ sung cho nhau để mô tả trọn vẹn chiếc trật tự động của bảng giá trị lẽ cần và đạo lí trên truyện này. Cảnh viết chữ trong buồng giam ban đêm dưới ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc và niềm vui giây phút của ông Huấn, sự thỏa nguyện của viên quản ngục cùng có lời bái lĩnh kính cẩn sau lời khuyên của ông Huấn là sự hòa hợp bừng nở viên mãn bố vẻ đẹp của bố con người xứng đáng là Con Người.

Thái độ thứ bố là thái độ cao rộng của bậc chính nhân quân tử.

Trước tiên, nhân vật Huấn Cao xuất hiện qua tiếng đồn. Mà đã là tiếng đồn thì ko cần chiếc gì cũng chính xác. Phần khuếch đại theo quy luật dị bản của truyền miệng hẳn ko hạn chế được, như tài bẻ khóa vượt ngục chẳng hạn, nhưng tài viết chữ siêu nhanh, siêu đẹp, cả tỉnh đều khen vững chắc là sự thực. Còn phạm tội phản nghịch, làm cho giặc thì trong giấy tờ quan trên đã ghi rõ. Mà đã dám làm cho việc đó thì đương nhiên cần là người có nghĩa khí, tài chuyên nghiệp, nay bị giết thịt đi thì thấy tiêng tiếc. Việc người đó làm cho là việc quốc gia triều đình, những kẻ coi ngục biết gì mà nói. Như vậy là con người Huấn Cao tuy chưa thấy mặt mà uy tín, danh tiếng đã lẫy lừng.

Trong suy nghĩ của 2 viên chức nhà ngục cũng có điều tô đậm thêm tính phương pháp Huấn Cao, nói cả lời bình có tính chất cảnh cáo của tên lính áp giải. Bố nhân vật có bố từ chứa đựng ý nghĩa đánh giá khá rõ: người thơ lại thì buồn. (Có tài thế mà đi làm cho giặc thì buồn nhiều). Viên quản ngục thì bảo ông Huấn là khoảnh (tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ). Tên lính áp giải thì xếch mé bảo ông tù này là ngạo ngược: Tên đó chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.

Tại sao thầy thơ lại thấy buồn? Đấy là do thầy nhận ra rằng người tử tù kia có tài. Có tài thì cần được sống để đem tài giúp đời, ấy là mong ước của người xưa. Có tài có đức, khổ mấy rồi cũng làm cho nên. Từng đọc tích xưa nên thầy thơ lại nghĩ: Có tài thế mà làm cho giặc thì đáng buồn nhiều vì làm cho giặc chẳng biết đúng sai, nhưng bị khép vào tội chết. Tài đó ko được vua quan dùng, lại đem tiêu diệt đi, thiệt cho đời biết bao nhiêu?! Đáng buồn cho đời bao nhiêu! Đây là 1 phương pháp đánh giá chiếc tài mà cũng là Loại Đẹp trên đời.

Còn khoảnh là thế nào? Khoảnh về chiếc gì? Khoảnh có ai? Chữ ông Huấn Cao đẹp, nhưng ông chỉ viết cho những bạn tri kỉ. ông tiếc công hay ông thiên vị? Ko cần! Mà ông nghỉ rằng chữ đẹp chẳng cần ai cũng biết thưởng thức và quý trọng.

Bạn tri ki là bạn hiểu Loại Đẹp, quý Loại Đẹp đó và những Loại Đẹp khác của con người mình. Viết cho tri kỉ là san sớt tâm hồn, thiên tài và Loại Đẹp của mình cho bạn. Khoảnh như vậy là trọng mình, trọng bạn, coi Loại Đẹp là báu vật trên đời, ko dễ gì phung chi phí. Viết chữ cũng như viết văn, làm cho thơ. Cụ Tam Nguyên Yên Đổ thoáng liên lạc mình có ông Đào (nhà thơ Trung Quốc nức tiếng Đào Tiềm) đã thấy thẹn cần ngừng bút. Bao bậc tài hoa trước lúc chết đã đốt hầu hết chữ nghĩa của mình vì cho là ko xứng đáng để đời. Đâu cần chỗ nào cũng dễ dàng hạ bút để vẽ vời?! Ta sẽ thấy tự động miệng ông Huấn nói ra cũng cùng 1 ý như trên. Biết nhận ra Loại Đẹp thì tất nhiên cũng biết quý trọng nó. Đào tiên Tây Vương Mẫu 5 trăm 5 new ra được 1 trái, ấy là thần thoại nhưng ý nghĩa vằn là đề cao Loại Đẹp.

Còn tên lính áp giải bảo Huấn Cao là ngạo ngược thì chẳng cần bàn. Con mắt ếch ngồi đáy giếng của hắn thì thấy trời chỉ lớn bằng chiếc vung. Sự tự động trọng của Huấn Cao nó cho là ngạo ngược. Theo nó, đã là tù nhân thì chi biết cúi đầu, chết cũng cần chịu, huống gì giữ phẩm giá làm cho người. Lũ tay sai trên thời ấy chẳng khác những chiếc gông, chỉ biết gông người chứ biết gì cần trái, đạo lí và danh dự. Nhưng đánh giá Huấn Cao như vậy, tên lính gián tiếp đã coi Huấn Cao là hạng người trên, dám khinh thường bọn hắn ra mặt.

Trên đây new là tiếng tăm Huấn Cao qua lời đồn, trong ý nghĩ 2 con người đáng quý trên nhà ngục và cả trong lời nói của tên sai nha. Còn ông Huấn tự động nghĩ về mình, về người và nói năng, hành động ra sao?

Trước sự biệt đãi của viên quản ngục mà người quản lý săn sóc là thầy thơ lại, ban đầu Huấn Cao tiếp nhận rượu thịt thản nhiên, coi như là việc vẫn làm cho trong chiếc hứng bình sinh. Tới lúc viên quản ngục đích thân vào buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng ông là người có nghĩa khí, xin ông cho biết cần gì thêm thì ông đáp 1 phương pháp trịch thượng: Nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đẩy người ta ra và chờ sự đáp trả bằng uy lực, nhưng người ta chi 1 mực lễ phép lui ra có 1 câu bất ngờ: Xin lĩnh ý, tức là xin tuân lệnh, hỏi làm cho sao ông Huấn ko nghi ngờ? Loại trò dụ dỗ sắm chuộc nơi giam cầm là mánh khóe quá bình thường, ông Huấn càng bực vì tưởng viên quản ngục có mưu đồ thâm hiểm gì đây. Suy xét mọi lẽ, ông thấy hóa ra ko cần. Mãi tới lúc thầy thơ lại hớt hải đem nguyện ước sâu xa của viên quản ngục bày tỏ có ông, cùng chiếc tin khẩn cấp là sáng hôm sau ông Huấn và quý khách sẽ bị đưa vào tận trong Kinh để chịu tội, thì Huấn Cao new vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò ông quản và nhận ra viên quản ngục này chính là hạng người biết quý Loại Đẹp. Ông mỉm cười dạy thầy thơ lại chuẩn bị cẩn thận để ông có thời cơ đáp lại tấm thịnh tình của viên quản ngục ngay đêm nay. Giọng Huấn Cao trở nên từ tốn: về bảo có chủ ngươi, tối nay… đem lụa, mực, bút và cả 1 bó đuốc xuống đây ta cho chữ. Cho chữ chứ ko cần viết chữ. Nghe như lời của bề trên, của thần tiên phán bảo. Huấn Cao khẳng định: Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng new viết có 2 bộ tứ bình và 1 bức tranh đường cho bố người bạn thân của ta thôi.

Lần này là lần thứ tư ông Huấn cho chữ. ông tự động giữ giá chữ đẹp của mình tới mức đó, vậy thì chiếc gì đã khiến cho ông hạ bút lần này? Chính là do lòng thành, biết quý trọng, biết lưu giữ Loại Đẹp hiếm hơn vàng ngọc của viên quản ngục: Ta cảm chiếc tấm lòng biệt nhỡn liên tài của những người. Nào ta có biết đâu 1 người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, tà đã phụ mất 1 tấm lòng trong thiên hạ. Lòng tự động trọng của ông Huấn đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Ko cần phi là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, cao hơn nữa là sự kính trọng đã nâng ông quản lên vùng vị trí của 1 bậc tri kì 1 tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Lời khuyên tiếp theo của Huấn Cao thốt ra 1 phương pháp tự động nhiên. Nên xa cuộc sống nơi tù ngục này, tắm gội mình trong cuộc sống trong sạch chốn quê nhà thì new giữ gìn được chiếc tính lành trời sinh và new đeo đuổi được thú chơi chữ đẹp.

Quang cảnh buổi ông Huấn cho chữ vừa lạ vừa đẹp, vừa như 1 ảo ảnh, 1 ánh hào quang ko cần của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại, 1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Buồng giam hẹp, bẩn, ẩm ướt, tối mịt, ánh đuốc đỏ rực như 1 đám cháy nhà. Bố bóng người hoạt động. 1 người ngồi dưới đất, 2 tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. 1 người khác run run bưng chậu mực. Người thứ bố cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang cầm bút viết thoăn thoắt trên mặt lụa. Đấy là viên quản ngục, thầy thơ lại và Huấn Cao. Viết xong, ông Huấn đỡ viên quản đứng dậy, rồi nhìn lại chữ mình viết đẹp tươi, nó nói lên những hoài bão của 1 đời người, ông đỉnh đạc có lời khuyên cuối cùng cho viên quản ngục: muốn treo chơi trong nhà bức chữ đẹp đó thì cần thay đổi đổi môi trường sống. Lần này, viên quản ngục lùi ra mà nói sắp như muốn khóc: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Tại cuộc giáp mặt lần trước, sau câu sẵng giọng của Huấn Gao, viên quản lễ phép lui ra và lắp đặt bắp: Xin lĩnh ý! Lần này, câu nói của ông ta ấp úng trong nghẹn ngào cảm động. Trên kia là chưa hiểu nhau, tới đây cả bố người đổng cảm trong 1 tấm lòng chung: tha thiết yêu Loại Đẹp, Loại Đẹp chữ viết đi liền có Loại Đẹp tâm hồn.

Truyện chấm dứt có lời nghẹn ngào nhiều ý nghĩa đó. Thái độ Huấn Cao trước sau có khác nhưng vẫn là thái độ của 1 bậc chính nhân quân tử. Đối có thầy trò viên quản ngục, ông Huấn vẫn giữ 1 khoảng phương pháp trên dưới nhất định, trước lạnh nhạt sau thân mật, ân cần; vẫn phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng, cao rộng đối có chiếc đẹp dù là bé nhất, dù trên bất kì hoàn cảnh nào.

Viết truyện này, Nguyễn Tuân có ngụ ý gì nữa ko? Điều vững chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối đối có 1 con người tài chuyên nghiệp, nghĩa khí, 1 nhân phương pháp lớn lao trên chiếc thời đất nước suy vong, đồng thời cũng kín đáo lồng vào ấy 1 nỗi đau chung cho đất nước và cho hầu hết những gì phải chăng đẹp, tài bố trong đời mà lũ thống trị thực dân phong kiến đã vùi dập 1 phương pháp bạo tàn. Đồng thời, tác giả khẳng định: cuộc đời dù đen tối tới đâu, trong nhân dân vẫn có những tấm lòng ngời sáng.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 2

Nguyễn Tuân – 1 nhà văn luôn đi tìm chiếc đẹp đã đem tới cho nền văn học Việt Nam 1 phong phương pháp tài hoa, độc đáo. Trước Phương pháp mạng, những tác phẩm của Nguyễn Tuân, đặc biệt trong tập Vang bóng 1 thời, thường viết về những nho sĩ cuối đời, những con người tài hoa nhưng bất đắc chí, buông xuôi có đời nhưng vẫn có những mâu thuẫn sâu sắc có xã hội, có thời buổi “Tây Tàu nhố nhăng”. Những tác phẩm trong Vang bóng 1 thời miêu tả những người chí sĩ tài hoa, ngông nghênh giữa cuộc đời, lấy chiếc thái độ của mình làm cho chiếc đối lập có xã hội. Trong số những tác phẩm đó, nổi bật lên là tác phẩm Chữ người tử từ cũng nhân vật Huấn Cao – 1 con người tài hoa, khí phách có chiếc tâm vô cùng trong sáng thiện lương, dù rơi vào hoàn cảnh chí ko thành nhưng cũng ko hề mất đi tư thế hiên ngang, ngạo nghễ có đời.

Tác phẩm Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng 1 thời xuất bản 5 1940, ban đầu được mang trong mình tên Dòng chữ cuối cùng. Tác phẩm cũng mang trong mình chung 1 nguồn cảm xúc có những tác phẩm khác trong cùng tập truyện lúc ca ngợi và khẳng định chiếc đẹp, đồng thời ca ngợi những con người sống đẹp có lối sống giản dị mà thanh bạch. Và chiếc đẹp chính là trung tâm của toàn bộ câu chuyện.

Nguyễn Tuân đã xây dựng lên 1 Chữ người tử tù đặc sắc có ko chỉ câu chữ đầy thiên tài, mà còn trên 1 vấn đề truyện có 1 ko 2 trên đời. Vấn đề truyện vốn là hoàn cảnh tạo nên sự kiện đặc biệt được nhà văn tạo ra trong tác phẩm của mình, và chính tại ấy, cuộc sống hiện lên đậm sắc nhất, ý đồ của người viết được bộc lộ rõ nét nhất. Dựa vào ấy, Nguyễn Tuân đã dựng lên 1 vấn đề truyện lúc viên quản ngục có cuộc gặp gỡ có Huấn Cao – 1 con người tài hoa, đặc biệt là tài viết chữ hiếm có trên trên đời nhưng đồng thời cũng là 1 tên tử tù đang chờ ngày hành quyết. Và viên quản ngục – người vô cùng hâm mộ nét chữ của Huấn Cao, quyết tâm xin bằng được chữ của người tử tù đó để cho toại chiếc “sở nguyện” của mình. Vấn đề truyện mà Nguyễn Tuân dựng lên hết sức đặc sắc, hết sức độc đáo, giàu kịch tính mà cũng đầy éo le. Chính điều ấy đã tạo nên 1 Chữ người tử tù – 1 tác phẩm về chiếc đẹp duy nhất vô nhị.

Đọc tác phẩm, người ta ko khỏi khắc thành ấn tượng về nhân vật chính trong câu chuyện – Huấn Cao – 1 nhân vật đại diện cho lớp người nho sĩ tài hoa, nhưng lại ko gặp thời, bất đắc chí. Huấn Cao – 1 vị anh hùng bị sa cơ thất thế, ông là nho sĩ nhưng cũng lại là người lãnh đạo nhân dân vùng lên chống lại triều đình để đòi lại công bằng cho mình. Cuộc đấu tranh thất bại, ông bị bắt, bị phán là 1 kẻ phản nghịch triều đình, cần chịu tội chết, bởi có Nho giáo ngày xưa, trung quân tình yêu quốc là 1 trong những điều kiện tiên quyết quyết định nhân phẩm của 1 con người. Có nhiều ý kiến cho rằng, nhân vật Huấn Cao được lấy sáng kiến mới từ người anh hùng Cao Bá Quát – 1 người nho sĩ cũng tài hoa vô cùng, cũng quả cảm, cũng có tài viết chữ tuyệt đỉnh, được mệnh danh “thánh Quát”, cũng là 1 thủ lĩnh đứng lên lãnh đạo khởi nghĩa chống lại triều đình.

Huấn Cao vốn 1 phương pháp gọi vô cùng kính trọng đối có 1 vị quan trông giữ việc học trên 1 huyện và đối có viên quản ngục trong tác phẩm, Huấn Cao được hắn vô cùng kính trọng. Sở hữu quản ngục, Huấn Cao tựa như là “1 ngôi sao Hôm nhấp nháy”, hay ” 1 ngôi sao chính vị”. Sở hữu vị thế của mình, đáng lẽ ra 1 người như quản ngục, sau khoản thời gian nhận được tin có 1 kẻ “phản nghịch” như Huấn Cao vào ngục của mình cần căm tức, cần ghét bỏ nhiều, nhưng quản ngục lại khác, ông dường như kiêng nể Huấn Cao, coi trọng Huấn Cao. Người ta thấy 1 phần trong ấy chất chứa chiếc sự ưu tình yêu mà Nguyễn Tuân dành cho 1 anh hùng thất thế như Huấn Cao.

Hình tượng nhân vật Huấn Cao được lấy nguyên mẫu từ người anh hùng Cao Bá Quát, có lẽ vì vậy mà Huấn Cao cũng mang trong mình trong mình sự tài hoa, ko chỉ về nghệ thuật thư pháp đỉnh cao mà còn là 1 người anh hùng có khí phách kiên cường và 1 người có chiếc tâm thiên lương trong sáng. Nguyễn Tuân đã khắc họa Huấn Cao trên nhiều bình diện để thấy được 1 vẻ đẹp thanh cao, đạt tới chân – thiện – mỹ của cuộc đời.

Trước tiên, Nguyễn Tuân miêu tả Huấn Cao là 1 người nghệ sĩ, vô cùng tài hoa trong nghệ thuật viết chữ, vang danh khắp nơi. Nguyễn Tuân ko quản lý khen ngợi chiếc thiên tài đó của Huấn Cao mà lại gián tiếp thông qua câu chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại. Trong câu chuyện của 2 người coi tù, xuất hiện 6 tên tội phạm mang trong mình tội phản nghịch triều đình, trong ấy có 1 kẻ tên Huấn Cao “Huấn Cao? Hay là chiếc người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen chiếc tài viết chữ siêu nhanh và đẹp ấy ko?”. Ko chỉ vậy, 2 thầy trò viên quản ngục còn dặn dò nhau rằng “bên cạnh chiếc tài viết chữ phải chăng, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục”, ấy là hầu hết những gì người ta được nghe gián tiếp lúc nhắc nhỏm về Huấn Cao. Huấn Cao hiện lên là 1 kẻ “văn võ toàn tài”, hội tụ khí chất của 1 kẻ anh hùng tài bố. Nguyễn Tuân đã thực tinh tế lúc khéo léo để nhân vật của mình xuất hiện gián tiếp trong lời nói của những kẻ khác thực tự động nhiên, lúc mà tiếng thơm của ông đã vang danh và truyền đi khắp thế gian.

Thế nhưng, chiếc tài hoa của Huấn Cao còn bộc lộ thực rõ ràng hơn trong hành động và suy nghĩ của viên quản ngục – người khao khát có được chữ Huấn Cao hơn hết thảy mọi thứ trên đời.

Ngay lúc nhận được “phiến trát” báo tin rằng “chúng ta sắp nhận được 6 tên tù án chém. Trong ấy, tôi nhận ra tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao”, viên quản ngục đã sắp như ngay tức thì muốn biệt đãi đối có Huấn Cao. Quản ngục đã cho “quét dọn lại chiếc buồng trong cùng. Có việc dùng tới”. Ông muốn những ngày cuối cùng của người tù Huấn Cao được thoải mái nhất, vì vậy ông đã bất chấp nguy hiểm mà đối đãi có Huấn Cao hết sức tử tế. Đối có Huấn Cao như thế, ông ko chỉ muốn bày tỏ tấm lòng trân trọng, thành kính của mình đối có tài hoa của Huấn Cao mà còn muốn đạt được chiếc sở nguyện của mình, ấy là có được chữ của ông Huấn. Đối có y, có được chữ viết của Huấn Cao đã phát triển thành 1 “sở nguyện” mà chỉ cần đạt được thôi là “y sẽ mãn nguyện”. Loại đẹp quả là có sức tác động lớn, nó khiến cho con người ta cần mê mẩn, cần cố gắng để đạt được, bất chấp những nguy hiểm hiểm nguy đang chờ đợi.

Thiên tài của Huấn Cao ko phải được Nguyễn Tuân bộc lộ quản lý 1 lời vậy mà, người ta vẫn cứ như thấy những con chữ thư pháp “đẹp nhiều, vuông nhiều” của người tử từ hiện lên trước mắt. Qua những hành động bất chấp nguy hiểm của quản ngục để đối đãi có Huấn Cao cùng những suy tư của y đã khiến cho chúng ta thực ấn tượng về thiên tài của người tử từ nổi danh của vùng Sơn đó. Và chỉ cần miêu tả chiếc khát khao cháy bỏng có được chữ Huấn Cao của viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã nâng tầm thiên tài của Huấn Cao, biến ông phát triển thành 1 thiên tài hơn người, phát triển thành 1 bậc “thần thơ thánh chữ”. Thái độ của viên quản ngục đối có người từ tù đầy sự ngưỡng mộ, đầy kính trọng, cần chăng đây cũng chính là tình cảm ngưỡng mộ của Nguyễn Tuân đối có chiếc đẹp? Người ta biết Nguyễn Tuân là người luôn săn tìm chiếc đẹp, và chiếc đẹp trong thiên tài thư pháp của Huấn Cao đã chạm tới chiếc đẹp tuyệt đối mà Nguyễn Tuân tìm kiếm tìm chăng? Và ấy cũng như 1 lời trân trọng của Nguyễn Tuân dành cho văn hóa cổ xưa của dân tộc đang bị mai 1 chăng?

Ko chỉ là 1 người nghệ sĩ tài hoa có nghệ thuật thư pháp, tử tù Huấn Cao còn nức tiếng là 1 người có khí phách hiên ngang của 1 vị anh hùng.

Nguyễn Tuân đã đựng công xây dựng hình ảnh của 1 vị anh hùng “chọc trời khuấy nước”, 1 người chỉ là 1 viên quan coi sóc việc học trên 1 huyện mà dám đứng lên lãnh đạo người dân chống lại triều đình để mà lập lại trật tự động xã hội. 1 vị quan bé, có công việc của mình, đáng ra cả đời ông đã được yên bình trong tĩnh lặng, thế nhưng, giữa chiếc cảnh “Hán học suy vi”, “Tây Tàu nhố nhăng” đã buộc vị quan đó cần vùng dậy có mong muốn lấy lại công bằng cho xã hội, mong có được 1 xã hội phải chăng đẹp hơn. Như viên quản ngục nhận xét Huấn Cao, ông ko chỉ đánh giá thiên tài viết chữ của Huấn Cao mà còn khâm phục chiếc khí phách hơn người của tên tử tù nữa, quản ngục gọi Huấn Cao là “1 ngôi sao Hôm”, “1 ngôi sao chính vị sắp tù biệt vũ trụ” hay “1 kẻ chọc trời khuấy nước”. Vài bố câu của quản ngục, những người ta đã thấy hiện lên chiếc tầm vóc mà công việc của Huấn Cao theo đuổi, nó lớn lớn và vĩ đại tới nhường nào!

Khí phách của Huấn Cao ko chỉ mô tả lúc ông còn trên bên cạnh tự động do mà ngay cả lúc sa cơ, cần chịu tù tội, ông vẫn giữ nguyên chiếc khí phách ngang tàng, kiên trung của mình.

Loại khí phách của ông mô tả gián tiếp qua lời của những nhân vật trong truyện mà trước tiên là qua lời của tên lính dẫn tù. Lúc vừa dẫn Huấn Cao cùng anh em của ông tới trại giam của viên quản ngục, tên lính đã dặn dò viên quản ngục rằng: “Bẩm thầy, tên đó chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất bọn”. 1 vị anh hùng dù sa cơ nhưng vẫn là 1 kẻ đặc biệt nguy hiểm, cần được đặc biệt chú ý. Đấy chính là chiếc khí phách ngạo nghễ của Huấn Cao, khí phách của 1 vị anh hùng luôn tỏa ra chói lòa tới thế.

Và giả dụ theo dõi tiếp, người ta hẳn để ý tới 1 chi tiết bé trong câu chuyện, chi tiết dỗ gông. Nguyễn Tuân đã chèn vào cả nguồn truyện 1 chi tiết bé đó, thế nhưng nó lại là chi tiết nổi bật nhất, phản ánh mạnh mẽ nhất chiếc khí phách gan góc, ngạo nghễ của người anh hùng Huấn Cao. Quả thực là chỉ có Nguyễn Tuân new có thể làm cho được điều này!

Sau thời điểm bước tới cửa trại giam, trên vị thế ấy là 1 kẻ khác, vững chắc hẳn sẽ ko chỉ buồn đau mà có lúc còn biến chất, phát triển thành kẻ tiểu nhân, thế nhưng có Huấn Cao thì ko. Những lời nói và hành động của ông dường như vô cùng thoải mái, thản nhiên, nhẹ như ko khí, đọc lên, người ta ngỡ như ông đang còn tự động do bên cạnh thế giới rộng lớn kia. Huấn Cao nói “Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi! Nên dỗ gông đi!”, câu nói nhẹ nhàng như lúc bình thường chứ ko ai nghĩ đây là lúc ông đang cần đeo gông mà vào ngục. Nghe câu nói đó, người ta ngờ như thấy Huấn Cao thản nhiên giống như là đang làm cho 1 việc bình thường trong cuộc sống.

Và rồi, chiếc khí phách ngạo nghễ đó càng mô tả mạnh mẽ hơn có chiếc hành động “dỗ gông”: “Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh 1 chiếc”. Chỉ có 1 chữ “thuỳnh” thôi, Nguyễn Tuân đã thu hết chiếc ngạo khí của 1 vị anh hùng vào câu chữ. Chữ “thuỳnh” đó nghe nó vang vọng, người đọc như được chính mắt nhìn thấy Huấn Cao “dỗ gông”, chính tai nghe được chiếc âm thanh “dỗ gông” vọng lên trong đầu của mình. 1 chiếc “thúc mũi gông”, Huấn Cao làm cho 1 phương pháp thản nhiên quá, như ông đang làm cho 1 việc gì ấy bình thường hàng ngày vậy. Ví dụ như 5 người bạn tù của ông cần “nhăn mặt” vì “then ngang cái gông bị giật mạnh, đập vào cổ”, thì riêng Huấn Cao lại ko phải tỏ vẻ gì. Đấy chính là khí phách của 1 vị anh hùng làm cho việc lớn, khiến cho cho mọi người cần nể vì.

Khí phách của người anh hùng Huấn Cao càng được mô tả qua hình ảnh của 1 tên tử tù trong lao ngục. Lao tù xưa nay vốn khiến cho cho con người ta cần kinh sợ, động lòng, là nơi có thể biến 1 kẻ anh hùng phát triển thành 1 kẻ tiểu nhân vô lại, thế nhưng có Huấn Cao lại khác. Sở hữu ông, lao tù chẳng qua cũng chỉ như 1 nơi trên, bởi chí khí của ông đã tung hoành khắp thế gian này rồi. Tại trong tù nhưng chẳng khác nào trên nhà, Huấn Cao vẫn ung dung, tự động tại, có khoản “biệt đãi” của quản ngục, ông “thản nhiên nhận rượu thịt, coi như ấy là 1 việc vẫn làm cho trong chiếc hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Huấn Cao cũng giống như Phan Bội Châu trên trong nhà lao Quảng Đông:

“Vẫn hào kiệt, vẫn phong lưuChạy mỏi chân thì hẵng trên tù”

Loại khí phách ngạo nghễ của những người anh hùng thực khiến cho những con người bình thường như chúng ta cần khâm phục bội phần.Và chiếc khí phách đó của Huấn Cao còn mô tả trên chỗ, ông “khinh bạc tới điều” cường quyền.

Đấy là lúc viên quản ngục lui vào “buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn” vừa mong ông giữ kín chuyện vừa ân cần hỏi han “ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”, thế nhưng đáp lại sự ân cần của quản ngục, Huấn Cao chỉ trả lời bằng thái độ ngạo mạn “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn 1 điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây”. Sở hữu ông Huấn, hầu hết những kẻ thuộc triều đình, là quan lại của triều đình đều là những kẻ ác, những kẻ xấu xa, sống trên đầu trên cổ của nhân dân, vậy nên, ông cũng coi viên quản ngục là 1 kẻ như thế. Chính vì thế, ông “khinh bạc tới điều” những kẻ hèn hạ này. Tới lúc viên quản ngục nghe thấy lời ông, đáp lại bằng 1 câu “xin lĩnh ý”, người ta new càng thấy chiếc tầm vóc của Huấn Cao, nó trở lên kì vĩ hơn, uy nghi hơn. 1 viên quản ngục, chúa ngục mà lại “cung kính chắp tay “xin lĩnh ý”” có 1 tên tử tù, thì tên tử tù đó cần mang trong mình 1 khí phách khiến cho người ta cần nể phục tới nhường nào chứ?

Xưa nay, đối có những người anh hùng khí phách ngút trời, chiếc chết có họ chẳng qua là “lông hồng”, họ đã chẳng còn đặt nặng việc sống chết. Sở hữu Huấn Cao cũng vậy, tới trước ngày ra pháp trường, ông vẫn ung dung trong tĩnh tại. Ví dụ như những kẻ khác, trước chiếc chết ko run sợ cũng cần động lòng hốt hoảng, thế nhưng, có những người anh hùng như Huấn Cao, chiếc chết chẳng có gì đáng sợ, bởi vậy, ông vẫn đường hoàng, bình tĩnh cho lại những con chữ cuối cùng của cuộc đời mình “những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những chiếc hoài bão tung hoành của 1 đời con người”.

Ví dụ như phía trên, người ta chỉ thấy tài hoa của ông gián tiếp qua lời nói của những nhân vật khác thì trên đây, khí phách của ông lại được bộc lộ quản lý qua lời nói và hành động, vừa được gián tiếp mô tả qua lời nói của viên quản ngục. Nguyễn Tuân đã xây dựng Huấn Cao trong sáng kiến mới của bút pháp hoàn hảo hóa, khắc sâu vào trong lòng chúng ta hình ảnh của 1 người có khí phách ngạo nghễ.

Ko chỉ là tài hoa, là chi phí khách hơn người, Huấn Cao còn được biết tới trên khía cạnh là 1 con người có chiếc tâm thiên lương vô cùng trong sáng.

Thiên lương vốn là từ chỉ bản tính phải chăng đẹp của con người được mô tả từ lúc sinh ra. Huấn Cao là 1 người có chiếc tâm thiên lương trong sáng, điều ấy mô tả qua việc ông cho chữ cũng như quan niệm của ông về chiếc chữ. Bởi như lời quản ngục nói về Huấn Cao “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”, bởi có Huấn Cao, chiếc chữ là thứ quý giá, ko thể cho tùy thuộc} tiện “ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao viết chữ đẹp là thế, nhưng cả đời ông chỉ new viết “2 bộ tứ bính và 1 bức trung đường cho bố người bạn thân”, ông chỉ trao con chữ của mình cho những người xứng đáng, cho những người chung chí hướng mà thôi. Đấy là quan niệm của Huấn Cao về chiếc chữ, chiếc đẹp trên đời. Huấn Cao tặng chữ cho quản ngục vì “ta cảm chiếc tấm lòng biệt nhỡn liên tài của những người”, ko muốn phụ đi tấm lòng của 1 người có “sở thích cao quý” và chiếc tâm biết kính trọng chiếc đẹp.

Hành động cho chữ của Huấn Cao cho quản ngục vừa mô tả 1 tấm lòng quý trọng con người, đền đáp cho người tri ký, vừa để nâng đỡ thứ ánh sáng thiên lương trong 1 con người khác của Huấn Cao. Viết chữ, viết câu đối là 1 hành động sáng tạo về mặt thẩm mỹ, thế nhưng trên đây, nó còn là 1 sự xúc động về mặt đạo đức nữa.

Thiên lương của Huấn Cao đã mô tả rõ lúc ông nhất tâm cho chữ quản ngục, ông cảm động bởi tấm lòng trân trọng chiếc đẹp, yêu quý chiếc đẹp của quản ngục và cũng từ chiếc đẹp đó, ông khuyên nhủ quản ngục giữ lấy chiếc thiên lương của chính mình. Con người ta vốn thiện lương đã đẹp, nhưng lúc chia sẻ, viện trợ người khác trở nên thiện lương thì chiếc thiện đó còn nâng cao gấp bội phần, Và Huấn Cao đã thực sự làm cho được việc ấy bằng lời khuyên nhủ quản ngục “Tôi bảo thực đấy, thấy Quản nên tìm về quê mà trên, thầy hãy thoát khỏi chiếc nghề này đi… Tại đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất chiếc đời lương thiện đi”. 1 người tử tù đã dùng hết những tâm can cuối cùng của cuộc đời mình để giúp người khác hướng thiện, ông đem chiếc thiên lương trong sáng vô ngần đó của mình để khơi gợi chiếc thiên lương trong lòng người khác. Đấy new thực là 1 người anh hùng trên đời!

Huấn Cao là nhân vật được Nguyễn Tuân xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, hoàn hảo hóa người anh hùng yêu nước, đồng thời, qua ấy, ông bộc lộ kín đáo tình yêu nước thầm kín của mình, kết tính ý kiến về chiếc đẹp của nhân vật về nghệ thuật và con người. Nghệ thuật chân chính sẽ có sức hút kì lạ đối có những con người thực sự yêu nó, thực sự trân trọng nó. Loại đẹp sẽ tác động tới tâm thức, tâm hồn của con người, nó là sự hòa hợp của cả chiếc tài và chiếc tâm

Thế nhưng, Chữ người tử tù sẽ chẳng thể là 1 tác phẩm vẹn tròn ý nghĩa giả dụ ko nhắc về nhân vật quản ngục, 1 chúa ngục sống giữa chốn đề lao “tàn nhẫn”, “lừa lọc”, “1 đống cặn bã”, nơi mà con người dễ sa ngã, dễ bộc lộ những thú tính hoang dại, độc ác nhất của mình.

Những tưởng sống trong chiếc môi trường có 1 “lũ quay quắt”, quản ngục cũng sẽ như chúng, hòa mình vào chiếc “bản đàn” xô bồ đó, nhưng ko, quản ngục lại được ví như “1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Ông là 1 con người có “tính phương pháp dịu dàng và lòng biết giá người”, là 1 con người “thuần khiết giữa 1 đống cặn bã”. Quản ngục hiện lên hoàn toàn trong 1 đoạn văn miêu tả bằng bút pháp trữ tình, gợi lên cho chúng ta hình ảnh của 1 con người có tâm hồn đẹp đẽ, biết trọng chiếc đẹp chiếc tài.

Viên quản ngục được Nguyễn Tuân khéo léo dựng lên thông qua 2 khía cạnh: 1 là 1 con người đam mê chiếc đẹp, và 2 là 1 con người biết hướng thiện, biết sống có chiếc thiên lương của mình.

Quản ngục là 1 người đam mê, quý trọng chiếc đẹp, ấy là lúc ông vừa nhận được “phiến trát” biết tin Huấn Cao sắp được chuyển tới đề lao của mình. Quản ngục đã sắp như ngay tức thì mô tả tấm lòng muốn “biệt đãi” có Huấn Cao – kẻ tử tù phản nghịch cùng có những người bạn khác của ông, bất chấp sự nguy hiểm tới tính mạng giả dụ như để lộ ra bên cạnh. Ví dụ như những tên quản ngục khác muốn bày tỏ chiếc quyền uy của 1 chúa ngục nơi chốn lao tù của mình thì viên quản ngục trên đây lại mô tả chiếc sự “biệt đãi” kính trọng đối có 1 tên tù nhân khí phách ngạo nghễ.

Ý kiến sống của quản ngục ấy là trân trọng chiếc đẹp, người tài, chiếc đẹp chính là tiêu chí trước tiên đánh giá nhân phương pháp của 1 con người. Thế nên, lúc nhận Huấn Cao vào ngục của mình, quản ngục đã “biệt nhỡn” Huấn Cao hết sức đặc biệt. Yêu chiếc đẹp, trọng chiếc tài, chính vì thế, quản ngục luôn đau đáu trong mình chiếc “sở nguyện” lúc có Huấn Cao trong tay, ấy là “1 ngày kia được treo trên nhà riêng mình 1 đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”, “ko kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất”. Loại sở nguyện đó của quản ngục chẳng cần ai cũng có, ấy là sở nguyện cao quý mang trong mình phẩm chất của 1 người nghệ sĩ. Ko yêu chiếc đẹp, trọng chiếc đẹp thì người ta làm cho sau thấu hiểu được chiếc đẹp trên đời mà trân trọng chiếc tài làm cho ra chiếc đẹp được cơ chứ?

Xem Thêm  Địa lí 6 Bài 23: Sự sống trên Trái Đất Soạn Địa 6 trang 171 sách Kết nối tri thức có cuộc sống

Có lẽ vì thế, từng hành động của quản ngục đối có ông Huấn là cả 1 sự cung kính, khiêm nhường tới vô cùng. Huấn Cao xuất hiện trước mặt quản ngục, có sự ngạo nghễ trong hành động “dỗ gông”, giả dụ như những tù nhân khác, quản ngục vững chắc hẳn “giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra”, nhưng có Huấn Cao, ông lại “kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi”. Nên, 1 con người trọng chiếc đẹp, chiếc tài như quản ngục thì làm cho sao ko kính nể con người tài hoa và khí phách như Huấn Cao được cơ chứ?

Tới lúc bị Huấn Cao hiểu lầm mà “khinh bạc tới điều”, quản ngục vẫn giữ nguyên thái độ cung kính của mình, đáp lại bằng sự “lễ phép lui ra có 1 câu: “Xin lĩnh ý”, bởi y thừa hiểu tính phương pháp của những người anh hùng như Huấn Cao, “những người chọc trời quấy nước, tới trên dầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi chiếc thứ mình chỉ là 1 kẻ tiểu lại giữ tù”. Loại khí phách mà Huấn Cao mô tả ra càng khiến cho cho viên quản ngục khâm phục ông hơn bội phần, sự khinh bạc của Huấn Cao có y, càng làm cho cho y cảm thấy kính nể mà “cơm rượu lại vẫn đưa tới đều đều và có phần hậu hơn nữa”.

Quản ngục – 1 nhân vật mà thân phận khác xa có tâm hồn của mình, Nguyễn Tuân cũng đã thẳng thắn thừa nhận điều ấy “Ông trời nhiều lúc chơi ác, đem đày ải những chiếc thuần khiết vào giữa 1 đống cặn bã. Và những người có tâm điền phải chăng và thẳng thắn, lại cần ăn đời trên kiếp có 1 lũ quay quắt”. Quản ngục là 1 con người mê chiếc đẹp, khát khao có được chiếc đẹp để mà trân quý và giữ gìn. Và như Nguyễn Tuân đã từng khẳng định: 1 con người thương chiếc đẹp, trân trọng chiếc đẹp thì ko bao giờ là kẻ xấu được.

Chẳng thế mà quản ngục còn là 1 con người biết hướng thiện, biết dũng cảm mà sống theo tiếng gọi của thiên lương.

Có lẽ lúc bước chân vào chiếc nghề cai ngục khủng khiếp này, quản ngục cũng đã từng day dứt “Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi!”. Bởi ông hiểu rõ chiếc môi trường đề lao “người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”, sẽ làm cho mai 1 đi tâm hồn “phải chăng và thẳng thắn”, mai 1 luôn cả tình yêu có chiếc đẹp của ông. Tới lúc gặp Huấn Cao, ông lại càng băn khoăn hơn giữa lý trí là nhiệm vụ của triều đình và tiếng gọi của thiên lương trong con tim ông. Huấn Cao tới, con người có chiếc tài, chiếc đẹp mà ông kính trọng tới, “ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, ông ko biết nên hành xử thế nào, nên lo liệu thế nào? Bởi 1 bên, ông ko hề muốn vi phạm nội quy công vụ của triều đình, 1 bên ông muốn khoản đãi 1 kẻ tử tù phản nghịch mà ông yêu kính. Tình thế khiến cho quản ngục cần đau đầu chọn lựa. Có người sẽ vì công vụ mà quên đi chiếc tâm của mình, quên đi chiếc đẹp mà mình vốn yêu vốn quý, thế nhưng, quản ngục thì ko. Sau 1 đêm ngồi suy ngẫm, “những đường nhăn nheo của 1 bộ mặt tư lự, trên sự thật} đã biến mất hẳn. Tại đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”, ông đã chọn nghe theo tiếng nói của trái tim, đựng bước theo tiếng gọi của chiếc đẹp, chiếc thiện lương.

Tiếp nhận Huấn Cao, chứng kiến chiếc hành động “dỗ gông” ngông cuồng, thế nhưng quản ngục lại ko phải băn khoăn, động tâm mà quản lý bộc lộ tấm chân tình của mình khiến cho cho hầu hết những tên lính lệ cần ngạc nhiên tới độ “nhắc nhở”.

Tới cuối cùng, lúc Huấn Cao đồng ý cho chữ rồi đựng lời khuyên can quản ngục “thầy Quản nên tìm về nhà quê mà trên, thầy hãy thoát khỏi chiếc nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ tới việc chơi chữ. Tại đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất chiếc đời lương thiện đi”, nghe tới đây, quản ngục ko khỏi cảm động, cúi đầu, nhìn “bức châm”, “vái người tù 1 vái, chắp tay nói 1 câu mà nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh””. Cuối cùng, chiếc thiên lương của 1 tên chúa ngục cũng đã được khai mở hoàn toàn nhờ có chiếc đẹp.

Quản ngục đã bước qua chiếc giới hạn của thân phận để mà sống thực có bản thân, có lương tri của mình, bất chấp rằng ông có thể hiểm nguy tới tính mạng. 1 con người đầy mâu thuẫn, ông là 1 kẻ tù nhân của chính mình, là 1 kẻ lạc lõng giữa chiếc đề lao mà mình cai quản.

Quản ngục được Nguyễn Tuân dựng lên bằng sáng kiến mới lãng mạn, bằng chiếc tâm yêu chiếc đẹp của mình. Qua nhân vật quản ngục, Nguyễn Tuân muốn khẳng định ý kiến của mình về chiếc đẹp rằng nó sẽ là nguồn cơn để con người trở về chiếc chân thiện mỹ của cuộc đời, hay 1 con người thương chiếc đẹp, trọng chiếc tài sẽ ko bao giờ phát triển thành 1 kẻ ác được.

Tìm hiểu Chữ người tử tù mà ko tìm hiểu cặn kẽ, ko phân tách cho sâu chiếc phân đoạn đắt giá nhất của tác phẩm “cảnh cho chữ” thì sẽ chẳng ai có thể hiểu hết những ý nghĩa sâu xa mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm. Cảnh cho chữ là 1 cảnh đắt giá nhất trong toàn bộ tác phẩm, là 1 cảnh “xưa nay chưa từng có”.

Giữa 1 ko gian chật hẹp trên buồng biệt giam, “1 buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” lại là nơi cho người ta thấy chiếc đẹp, chiếc tài hoa của 1 con người. Vào giữa đêm khuya “chỉ còn vẳng lên tiếng mõ vọng canh”, những con chữ được sáng tạo ra vào lúc người ta ko ngờ tới nhất, bởi xưa nay, người ta thường cho chữ vào lúc trời còn sáng, lúc mặt trời còn đẹp giữa thế gian. Và người cho chữ cũng vậy, là những người làm cho công việc sáng tạo này cần là người hay chữ, trong 1 tâm thế thoải mái, vui tươi nhất, thế nhưng đối lập lại, người cho chữ trên đây lại là 1 tên tử tù ngày mai sẽ bị dẫn ra pháp trường hành quyết. Có lẽ giờ đây là khoảng thời kì cuối cùng mà người anh hùng có thể để lại di huấn của mình có “những hoài bão ước mơ tung hoành của cả 1 đời người”.

Có lẽ chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam, 1 cảnh cho chữ nào mà vị thế của những nhân vật được đảo ngược tới thế. Những kẻ quyền uy như quản ngục, thầy thơ lại là cần khúm núm, khép nép còn kẻ tử tù có tội lại hiên ngang, bình thản, tĩnh lặng mà bay bổng trong từng nét chữ như thế! Và giả dụ như chúa ngục là những kẻ cần buông lời khuyên răn dạy dỗ phạm nhân, thì trên đây, phạm nhân lại là người lên tiếng dạy dỗ viên quản ngục. Thế nhưng, ko ai có thể ko công nhận, chiếc khí phách, chiếc tài hoa của tên tử tù kia đã khiến cho cho những kẻ quyền uy như quản ngục cần cúi đầu. Và chiếc cúi đầu đó ko khiến cho cho quản ngục thấp hèn đi mà khiến cho ông trở lên cao đẹp hơn, bởi lẽ những lời giáo huấn đó đã đánh thức chiếc thiện trong ông, cúi đầu trước chiếc đẹp, chiếc uy nghi để nhận những lời răn dạy thì ko bao giờ thấp hèn cả.

Quản ngục cung kính có Huấn Cao, chiếc cung kính đó ko làm cho ông hèn nhát mà nó còn làm cho sáng rực chiếc nhân phương pháp đẹp đẽ, thánh thiện, sự sùng bái của quản ngục có chiếc đẹp, chiếc tài và khí phách của người anh hùng.

Quản ngục chính là nhân vật được Nguyễn Tuân gửi gắm quan niệm nhân sinh sâu sắc của mình. Đấy là ẩn sau từng con người dù sống trong xấu xa, độc ác vẫn luôn có 1 tâm hồn khao khát chiếc đẹp, khao khát chiếc thiện lương, chực chờ thứ ánh sáng thiên lương chiếu tới để bừng dậy mạnh mẽ.

Bằng bút pháp lãng mạn, tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên những nhân vật trong sự hoàn thiện, hoàn mỹ tới mức hoàn hảo hóa. Như Huấn Cao – 1 con người xuất chúng, ko chỉ tài hoa mà còn có khí phách hơn người cùng 1 trái tim chứa đầy thiên lương. Còn quản ngục – 1 con người sống giữa muôn vàn chiếc ác nhưng lại phát triển thành “1 thanh âm trong trẻo chen giữa 1 bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, biết yêu chiếc đẹp, biết trọng chiếc tài, biết phục chiếc thiện. Ông cũng xây dựng những nhân vật đối lập trong Chữ người tử tù như Huấn Cao có quản ngục (tử tù có chúa ngục), hay sự đối lập trong chính thân phận và nội tâm của quản ngục.

Hơn thế, trong cảnh cho chữ, tác giả cũng xây dựng những hình ảnh đối lập từ ko gian, thời kì, cũng như chiếc đẹp đối lập có chiếc xấu. Ngôn ngữ trong Chữ người tử tù vô cùng giàu hình ảnh, đa dạng những từ ngữ Hán Việt tạo nên ko khí cổ kính cho tác phẩm.

Chữ người tử tù là tác phẩm thành công nhất trong tập Vang bóng 1 thời của Nguyễn Tuân. Nó đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của 1 người anh hùng tài hoa, chí khí, đồng thời nó cũng cho ta thấy được ý kiến về chiếc đẹp của Nguyễn Tuân trong cuộc sống.

Phân tách Chữ người tử tù – Mẫu 3

Chữ người tử tù là 1 truyện ngắn hay, phản ánh tài hoa của Nguyễn Tuân trong nghề văn trước Phương pháp mạng tháng 8. Vang bóng 1 thời gồm 11 truyện ngắn được in trong ấy, đã sớm được người đọc nâng niu, đã giành được vùng vị trí khá trang trọng trên văn đàn trước 1945, và lúc mà văn học Quốc ngữ đang trong thời kì phát triển thành mạnh. Ví dụ Trần Tế Xương bất hoà sâu sắc có xã hội phong kiến buổi giao thời của lối sống Đông – Tây qua thơ phú thì Nguyễn Tuân cũng trình bày mối bất hoà đó qua những trang truyện ngắn của ông. Ví dụ Trần Tế Xương phơi bày lối sống chịu đấm ăn xôi, giả dối… của những tên xu thời, xiểm nịnh thì Nguyễn Tuân lại ca ngợi những nhà Nho cuối thời siêu tài hoa, đầy bản lĩnh, sống có cổ xưa cao đẹp, sống đúng có lương tri dù gặp lúc sa cơ lỡ vận. Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng 1 thời.

Chữ người tử tù là 1 truyện có bối cảnh lạ, những vấn đề lạ. Và 2 nhân vật chính có tính đối lập là Huấn Cao và viên quản ngục lại gặp nhau trên nếp sống trong thiên lương.

Viên coi ngục nhận 6 tên tù chém do Huấn Cao đứng đầu. Huấn Cao là người khí khái và có tài viết chữ đẹp nức tiếng khắp vùng. Dù làm cho quan coi ngục nhưng viên quan này lại siêu trọng những người có tài, tính khí khái, và hẳn là anh ta siêu thích chữ đẹp. Sau thời điểm dò xét được thầy thơ lại giúp việc, quan coi ngục tiếp đãi nồng hậu những tử tù, nhất là Huấn Cao để chỉ mong người tử tù này viết cho mấy chữ. Lúc được lệnh triệu 6 tử tù này về kinh để chịu án chém, qua sự liên lạc của viên thơ lại, Huấn Cao đồng ý viết. Tối hôm ấy, dưới “ánh sáng đỏ rực của 1 bó đuốc tẩm dầu”. Huấn Cao viết chữ trên lụa cho quan ngục. Viết music, đĩnh đạc nói:

– … Tại đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cùng tới nhem nhuốc nát cả đời lương thiện đi.

– … Ngục quan cảm động, vái người tù 1 vái…: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Kết cấu của truyện siêu giản dị nhưng ko loãng, ngược lại chặt chẽ trong từng chi tiết, từng vấn đề mà những vấn đề này gắn bó có nhau trong quan hệ nhân quả. Truyện có bố vấn đề chính xoay quanh việc viên quản ngục và tử tù Huấn Cao.

Nhận được trát báo là nhà lao sẽ nhận 6 tên tù án chém nguy hiểm. Nghi ngờ trong ấy có người viết chữ đẹp nức tiếng, nên quan ngục chuẩn bị đón tù.

Tù tới, và đón tù. Quan coi ngục biệt đãi Huấn Cao, đích thân vào thăm và lúc được tin giải 6 tử tù về kinh, viên quan coi ngục nhờ có viên thơ lại, được Huấn Cao tặng cho chữ viết và những lời khuyên.

Những chi tiết đó gắn liền có nhau thành nguồn văn trôi chảy nhờ có phương pháp diễn đạt từng câu, từng đoạn văn, nhất là nghệ thuật dùng từ gọn gàng, chuẩn xác, liền ý 1 phương pháp tự động nhiên.

Những từ thuộc về chức danh được dùng trong truyện chứng tỏ nhà văn đã nghiên cứu khá kỹ về đề tài này trước lúc đặt bút viết. Gần như, những chức danh đó được dùng dưới thời phong kiến nhà Nguyễn. “Phiến trát” là công văn, “đốc bộ đường” chỉ quan tổng đốc cửu (9) phẩm, và người cao nhất là nhất phầm: “Thẳng, thập” là người đứng đầu 1 đội quân gồm 10 lính, “ti Nết” là ti Pháp luật..

Đúng như quan niệm của nhà văn, tả người hay tả cảnh đều có những đoạn văn hay, đẹp, yêu thích có hoàn cảnh tâm lí nhân văn:

“… Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương…” – Người ngồi đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu sắc. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự, trên sự thật} đã biến mất hẳn. Tại đây, giờ chỉ còn là mặt nước cao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ: quan coi ngục hiền lành, trọng nghĩa, trọng tài. Đấy là hình ảnh của người đang gặp trường hợp khó xử.

– “..” Then ngang cái gông bị giật mạnh, đập vào cổ 5 người sau, làm cho họ nhăn mặt. 1 trận mưa rệp đã làm cho nền đá xanh lâm tâm những điểm nâu đen…” : Cảnh tù đày, khổ cực nhục hình, mà người tù cần chịu trước lúc chết vì tội phản nghịch.

Bên cạnh những nhân vật phụ là bọn lính canh tù và viên thơ lại, truyện có 2 nhân vật chính mà ban đầu họ đều là những người có cùng chiến tuyến. Viên quan coi ngục biết Huấn Cao là quan trông coi việc học hành trên phủ, huyện. Có lẽ vì chống lại triều đình nên bị ghép vào tội phản nghịch chăng?

Ngay thời điểm hiện tại}, dù đã phát triển thành 2 nhân vật khác tuyến, đối nghịch nhau nhưng những nhân vật thuộc 2 tuyến đó đều có bản chất nhân tình yêu. Họ nể trọng nhau, giả dụ có xung đột trong truyện thì ấy chỉ là sự hiểu lầm, và sau khoản thời gian biết rõ thì họ lại cảm thông nhau, sẵn sàng đáp ứng ước muốn của nhau, nhất là Huấn Cao. Bởi vậy, chi tiết tâm lí của người này gắn bó có suy nghĩ hay hành động của người kia khiến cho truyện càng chặt chẽ hơn trong nghệ thuật diễn đạt.

Qua lời giới thiệu của viên coi ngục thì Huấn Cao bên cạnh chiếc tài viết chữ phải chăng, lại còn cỏ tài bẻ khoá và vượt ngục nữa? Văn võ toàn tài. Và cũng đã trên tù hơn 1 lần…

Lúc tới nhà lao “Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh 1 chiếc.” Con người đó có sức mạnh, thông minh, quyết đoán hơn người. Đấy là chỉ về vóc dáng.

Về mặt tâm lí, qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, nhân vật này cũng có nhiều điểm đặc biệt. Trước hết là chiếc tội được ghi trong “phiến trát” : phản nghịch, bị án chém. Là người chống lại chế độ phong kiến. 1 người “phản nghịch” nhưng lại nổi danh và được mọi người nể trọng thì vững chắc là cần có những điểm đặc biệt. Loại khéo của nhà văn là trên việc khơi gợi trí tò mò, tìm hiểu nhân vật trên người đọc.

Trước hết., Huấn Cao ko khỏi thắc mắc tại sao lại được: “1 người thơ lại gầy gò, đem rượu tới cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù”. Thế nhưng ông ta “vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như ấy là 1 việc vẫn làm cho trong chiếc hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm”. Đấy là thái độ của con người bình tĩnh, của người biết trước hậu quả của công việc mình làm cho. Là người trông coi việc giáo dục cấp huyện, phủ vững chắc chắn Huấn Cao hiểu đức tính “uy vũ bất năng khuất” của người quân tử. New bước vào cửa tù, Huấn Cao đã chứng tò đức tính đó lúc tự động ý ra lệnh cho đồng tội có mình “dỗ gông” trừ rệp! An nhiên, tự động tại ko mảy could trình bày sự mất bình tĩnh ngay cả lúc được nghe thầy thơ lại báo cho biết là cần về kinh chịu án tử hình. Gã tù siêu khôn và tỏ ra khinh bạc. Gặp quản ngục vào thăm, Huấn Cao vẫn lạnh lùng. Lúc biết ý định của viên quan coi ngục, ông lại trả lời 1 câu mang trong mình ý khinh bạc:

“Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có 1 điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây”.

Qua sự miêu tả của nhà văn “Huấn Cao đã đợi 1 trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục” Biết nhưng vẫn nói. Nói để làm cho gì? Để thử lòng phải chăng của viên quan kia, để giả dụ thực kính trọng ông ta thực thì cũng ko bị liên lụy. Tội ai làm cho người đó chịu cũng là đức tính của kẻ đạt nhân.

Và cuối cùng, Huấn Cao biết quý trọng người hiền, biết trọng người đam mê chiếc đẹp nghệ thuật. Dù Nguyễn Tuân ko cho nhân vật lộ ra nhưng có lẽ Huấn Cao cũng tự động đặt câu hỏi trong đầu lúc được viên quan coi tù đối xử tử tế.

Và lúc đã gặp tên cai tù, dùng những lời lẽ khinh bạc, đầy khí khái đáp lại bắc buộc của hắn, Huấn Cao vẫn ko hề bị những trận đòn thù. Huấn Cao lại được biệt đãi hậu hơn. Và “Ông Huấn lại càng ngạc nhiên nữa: 5 đồng chí của ông đều được biệt đãi như thế cả” vững chắc chắn Huấn Cao ko khỏi thắc mắc. Cho tới lúc ông Huấn nghề “đấm cửa buồng giam và hớt hơ hớt hải nói cho tử tù” nghe nỗi lòng viên quản ngục, và ngập ngừng báo cho ông Huấn biết việc về kinh chịu án tử hình” thì Huấn Cao new nhận ra nguyên nhân của sự việc mình và quý khách đồng chí được biệt đãi trong tù. Nguyễn Tuân đã cho Huấn Cao “lặng nghĩ 1 lát”. Ông nghĩ về tay quan tù để rồi đáp lại tấm lòng của viên quan. Giọng điệu của câu nói cũng đầy khí khái nhưng lại chứa đựng nhiều thân thiện: “… Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ… Ta cảm chiếc tấm lòng biệt nhỡn liên tài của những người. Nào ta có biết đâu 1 người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy…”.

Nhưng trọng người hiền ko chỉ đáp ứng 1 ước muốn dù đối có viên quan coi ngục là lớn nhưng đối có Huấn Cao thì chỉ là 1 phần giá trị của cuộc sống. Huấn Cao muốn con người biết giá trị chiếc đẹp đó sống phải chăng hơn, thanh cao hơn. Chính bởi vậy mà Nguyễn Tuân cho những nhân vật đó gặp gỡ nhau trong khuôn cảnh “xưa nay chưa từng có” trong những sắc màu sắc chập chờn, lóng lánh nửa thiêng liêng nửa ma quái. Và sau khoản thời gian “1 người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván” xong. Nguyễn Tuân cho nhân vật đóng vai người tù “đỡ viên quản ngục đứng thẳng người”. Hình ảnh ấy thực có giá trị. Trong hoàn cảnh đó, quan ngục đỡ Huấn Cao new cần, nhưng tại sao lại có cử chỉ ngược lại? Sự thay đổi đổi cử chỉ đầy ý nghĩa đó làm cho nổi bật lí tưởng mà con người đang sống. Lí tưởng đúng tạo nên thế mạnh của con người. Trong viên quan coi ngục, Huấn Cao đã khuyên:

“Tại đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay đổi chốn trên đi… trên đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.

Nhân vật Huấn Cao qua ngòi bút Nguyễn Tuân là người vừa có tài vừa có đức, sống ko gặp thời. Còn viên quan coi ngục thì sao?

Đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu sắc. Những đường nhăn nheo của bộ mặt tư lự..” : tuổi đã chớm già. Vài chi tiết về tóc, râu và đường nhăn trên nét mặt thôi Nguyễn Tuân cũng đã vẽ ra được phần quan yếu trong vóc dáng của con người. Từ những đường nét đặc biệt đó, Nguyễn Tuân đã đưa thẳng nhận xét của mình về con người đó: “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, tính phương pháp dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là 1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” : so sánh làm cho nâng cao nét đẹp tâm hồn của viên quản ngục. Nguyễn Tuân lại nhận xét 1 phương pháp rõ ràng hơn về sự trái ngược của tâm hồn và hoàn cảnh sống của viên quan: “Ông trời nhiều lúc chơi ác đem đày ải những chiếc thuần khiết vào giữa 1 đống cặn bã. Và những người thẳng thắn, lại cần ăn đời trên kiếp có lũ quay quắt”. Câu văn có 2 tác dụng: ca ngợi viên quan coi ngục và tố cáo xã hội đương thời. Vậy chiếc thuần khiết của viên quan coi ngục là những gì? Đấy là:

Đam mê nét đẹp: “…Từ những ngày nào, chiếc sở nguyện của viên quan coi ngục này là có 1 ngày kia được treo trên nhà riêng mình 1 của đôi do tay ông Huấn Cao viết “… Người tù viết xong 1 chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm đựng những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ…” cử chỉ của 1 người quý trọng chữ thánh hiền, quý trọng tinh hoa trong con người dù ấy là kẻ tử tù như Huấn Cao. Nhưng tại sao ông ta lại vào đây? Do “chọn nhầm nghề mất rồi…”.

Dè dặt, ý tứ ngay từ đầu, lúc biết có Huấn Cao tới, viên quản tù khéo léo trong câu chuyện để dò xem thầy thơ lại giúp việc có thái độ như thế nào. Ngay đêm hôm ấy, “Ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương”, ông ta đã cần suy nghĩ nhiều, tìm hết lẽ thiệt hơn về câu nói của thầy thơ lại để rồi dự đoán: “có lẽ lão bát này, cũng là 1 người khá đây… 1 kẻ biết kính mến khí phách, 1 kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài, hắn ko cần là kẻ xấu hay vô tình”. Biết vậy nhưng cũng cố dò xét thâm vững chắc chứ ko nôn nóng. Là người biết chữ như ông ta tất ông biết rõ lời khuyên của cố nhân: “Dục tốc bất đạt”.

Lúc biết thầy thơ lại đồng tâm ý có mình, viên quản tù new dám nhờ có mang trong mình rượu thịt biệt đãi Huấn Cao.

Thân chinh tới gặp Huấn Cao có thái độ “khép nép”. Bị Huấn Cao đuổi khéo ra bên cạnh thì lại lễ phép: “Xin lĩnh ý” như 1 thủ hạ đối có soái chủ, 1 quan bé đối có quan lớn chứ chẳng dùng quyền uy của 1 ông quan coi ngục có 1 tử tù. Huấn Cao đã chờ đợi sự trả thù thường tình đó. Nhưng viên quan đã ko hành động “Y cũng thừa hiểu, những người chọc trời khuấy nước, đếm trên đầu người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi mình chỉ là 1 kẻ tiểu lại giữ tù”.

Có thể là 1 người biết thức tỉnh. Được Huấn Cao viết chữ tặng và được người tử tù khuyên bảo, viên quan coi ngục có lẽ đã thấy rõ được thân phận của mình nên “… cảm động, vái người tù 1 vái, chắp tay nói 1 câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh thực sự thì đây chỉ new là lời nói, nhưng có cần văn có ý mở chứ ko đóng chặt cánh cửa trên kết luận của truyện ngắn này? Chuyện gì sẽ xảy ra đối có người tử tù, đối có viên quan coi ngục? Có bố trường hợp sẽ xảy ra:

– Người tử tù bị triệu về kinh và chịu án trên ấy. Viên quan coi ngục vẫn làm cho công việc cũ thì hắn ta là người dối trá…

– Người tử tù bị triệu về kinh và chịu án trên ấy. Viên quan coi ngục xin từ quan…

– Viên quan coi ngục cùng có nhóm tử tù bỏ trốn…

Trong bố khả năng trên, khả năng thứ 2 có thế xảy ra bởi viên quan coi ngục đã từng suy nghĩ là ông ta chọn nhầm đường. Xin từ quan về vui thú điền viên có thể cũng là 1 thái độ chờ thời cơ tiện lợi. Và dòng sông chống lại lộc tài bất công… vẫn hiện hữu trên trên đời.

Chữ người tử tù là 1 truyện ngắn hay, phản ánh tài hoa của Nguyễn Tuân trong nghề văn trước Phương pháp mạng tháng 8. Tài hoa đó được trình bày qua lối hành văn khúc chiết, nguồn lạc, qua kết cấu truyện chặt chẽ, qua những vấn đề truyện độc đáo, gân guốc và lạ lùng nhưng vẫn ko vượt bên cạnh khuôn tạo nên giá trị của nhân vật. Hình tượng Huấn Cao trong truyện có những tính phương pháp độc đáo của 1 nhà nho luôn sống trung thành có thiên lương, nói cả viên cai ngục. Cổ điển trọng nghĩa khinh tiền tài của cha ông trên 2 nhân vật đối lập trong hoàn cảnh sống đã vượt qua chính họ, vượt qua hoàn cảnh sống u uất của từng người để hình thành thái độ xin và cho có 1 ko 2 trong lịch sử văn học siêu tương xứng có tựa của sách Vang bóng 1 thời.

Chữ người tử tù phân tách – Mẫu 4

Chữ người tử tù cũng như Bữa rượu máu là 2 truyện ngắn trong tập Vang bóng 1 thời (1940), mô tả siêu rõ tinh thần dân tộc của nhà văn Nguyễn Tuân.

Tên công sứ và tên tổng đốc, những vị Thủ hiến đứng đầu tỉnh đã “thưởng thức” 1 phương pháp hả hê “bữa rượu máu” trên chiếc án tử hình 12 nghĩa quân Bãi Sậy. Cho nên 1 trận gió lốc oán hờn đã “đuổi theo những quan đang ra về”, hất tung “chiếc mũ trắng trên đầu quan công sứ” lăn mấy vòng trên bãi cỏ! Tới Chữ người tử tù thì thái độ nhà văn ca ngợi những chính trị phạm, những con người “khí phách”, những kẻ “chọc trời khuấy nước”… đã quá rõ.

Hình tượng ông Huấn Cao vững chắc chắn có quan hệ tới Cao Bá Quát, 1 nhà thơ tài hoa, phóng khoáng (Văn như Siêu, Quát, vô tiền Hán) đã từng làm cho Hành tẩu trên bộ Lễ rồi bị giáng chức, làm cho Giáo thụ phủ Quốc Oai (Sơn Tây), tham dự cuộc khởi nghĩa của nông dân Sơn Tây chống lại triều đình (1854) rồi tiếp theo bị giết thịt, bị triều đình Tự động Đức ra lệnh tru di tam tộc. Huấn Cao là 1 hình tượng đẹp có bóng dáng lồng lộng, đầy khí phách và tài hoa trong tác phẩm Nguyễn Tuân. Con người được lí tưởng hóa này cũng như những kẻ tài hoa, những giang hồ lãng tử khác trong Vang bóng 1 thời là hình bóng của Nguyễn Tuân, là ước mơ của Nguyễn Tuân. Bởi vì những nhân vật lí tưởng trong văn học lãng mạn – tuy có thể, bắt nguồn từ 1 nguyên mẫu bên cạnh cuộc đời – nhưng suy tới cùng đều phản ánh tính phương pháp của nhà văn yêu nước, có tinh thần dân tộc đậm đà, cho nên ông tìm thấy trên Cao Bá Quát – 1 nhà nho yêu nước, 1 con người vì nghĩa lớn dám đứng về phía nhân dân chống lại triều đình – 1 tâm hồn đồng điệu, 1 hình ảnh đẹp. Nhưng Nguyễn Tuân mê Huấn Cao còn vì 1 lí do khác, Huấn Cao ko chỉ là 1 kẻ “chọc trời khuấy nước”, có “chiếc hoài bão tung hoành” mà còn là 1 nghệ sĩ tài hoa, chữ viết siêu đẹp. Viên quản ngục đã từng mơ ước “Có được chữ ông Huấn Cao mà treo là 1 vật báu trên đời…” Chính nhờ có thêm chiếc chất nghệ sĩ tài hoa ấy mà Huấn Cao new nhập vào đám nhân vật tài hoa, tài tử của Nguyễn Tuân, vào chiếc tiểu thế giới của Nguyễn Tuân mang trong mình dáng dấp phong phương pháp Nguyễn Tuân.

Trước Phương pháp mạng, Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ chỉ có 1 tâm hồn yêu chiếc Đẹp, đã đem chiếc Tôi tài hoa, khinh bạc, kênh kiệu của mình chống lại chiếc xã hội “ối a bố phèng”, chiếc xã hội ô trọc của những kẻ giàu lên 1 phương pháp hỗn láo, chiếc xã hội ăn hiếp người của bọn con buôn, chỉ điểm, mật thám. Lạc lõng giữa chiếc xã hội sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc đó là 1 đám nghệ sĩ tài hoa, tài tử, những kẻ giang hồ phiêu lãng, chỉ đem chiếc tình chiếc tài ra đối đãi có nhau. Viên quản coi ngục còn chút thiên lương và Huấn Cao thuộc loại người hiếm hoi này.

“Ta nhất sinh ko vì vàng ngọc hay quyền thế, mà cần ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng new viết có 2 bộ tứ bình và 1 bức trung đường cho bố người bạn thân của ta thôi. Ta cảm thấy lòng biệt – hãm hiền tài của những người. Nào ta có biết đâu 1 người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ 1 1 tấm lòng trong thiên hạ”.

Huấn Cao là 1 nhân vật lãng mạn tiến bộ. Những nhân vật lãng mạn ít nhiều đều được phóng đại và lí tưởng hóa. Tại đây tác giả xây dựng 1 cặp nhân vật có tính phương pháp sắp giống nhau (quản ngục và Huấn Cao) và nhân vật quản ngục sẽ làm cho tôn lên vẻ đẹp cao cả của Huấn Cao. Trước lúc Huấn Cao xuất hiện thì người tử tù này đã được thầy trò viên quản ngục khen là “văn võ đều có tài”, là người nức tiếng tỉnh Sơn về “chiếc tài viết chữ nhanh và siêu đẹp”. Và chiếc án tử hình của Huấn Cao dường như cũng làm cho cho trời đất quạnh quẽ, mịt mùng sau tiếng trống thu ko của thành phủ, như muốn vĩnh biệt 1 người anh hùng: “Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiềng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất phải chăng, nâng đỡ lấy 1 ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”. Kết thúc truyện ngắn, Huấn Cao nổi lên như 1 thần tượng. Sau thời điểm cho chữ, người tử tù “khuyên thầy Quản nên thay đổi chốn trên đi. Chỗ này ko cần là nơi để treo 1 bức lụa trắng trẻo có những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, nó nói lên những chiếc hoài bão, tung hoành của 1 đời con người… Ngục quan cảm động, vái người tù 1 chiếc, chắp tay nói 1 câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho cho nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Sự đối lập giữa lí tưởng và hiện thực, giữa tính phương pháp và hoàn cảnh là đặc thù cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Huấn Cao và viên quản ngục cũng là những người xa lạ có hoàn cảnh, đứng cao hơn hoàn cảnh: “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, băng lừa lọc, tính phương pháp dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là 1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. “Ko chỉ xa lạ mà còn đối lập có hoàn cảnh: “Ông trời nhiều lúc hay chơi ác đem đày ải những chiếc thuần khiết vào giữa 1 dòng cặn bã”. Nguyễn Tuân đã dùng siêu thành công thủ pháp đối lập ấy trên phần kết thúc tác phẩm. Loại đêm người tử tù cho chữ viên quản ngục thực là 1 vấn đề kì lạ, thực tương phản, đúng là “1 cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Những vấn đề kì lạ đã góp phần làm cho nổi bật tính phương pháp của những nhân vật lãng mạn, những con người đứng cao hơn hoàn cảnh, ko chịu sự tác động của hoàn cảnh khách quan. Ngay trong tiểu thuyết hiện thực của Đốtxtôiépxki đôi lúc cũng có những vấn đề kì lạ như vậy. 1 cô gái điếm, 1 kẻ sát nhân tụ tập trong 1 căn phòng hẹp, có ngọn nến bập bùng, trước pho sách vĩnh hằng của Kinh Thánh (Tội ác và hình phạt). Tại đây, cũng trong 1 chiếc buồng tối chật hẹp, đầy mạng nhện và phân chuột, phân gián trong ko khí khói tỏa như đám cháy, ánh sáng đỏ ngòm của 1 bó đuốc tẩm dầu rọi lên bố chiếc đầu người đang chăm chú trên 1 tấm lụa bạch còn nguyên vẹn làn hồ. Người tử tù đeo gông, chân vướng xiềng, đang tô đậm nét chữ vuông vắn, tuyệt đẹp trên tấm lụa trắng tinh, cạnh ấy, viên quản ngục “khúm núm” và thầy thơ lại run run bưng chậu mực… Giữa chốn lao tù ko cần bóng tối và sự tàn bạo có thể khuất phục được con người, mà chính con người lại có 1 sức cảm hóa kì diệu. Bằng sức mạnh của 1 nhân phương pháp cao cả và thiên tài tuyệt diệu, người tử tù đã làm cho chủ nhà ngục còn viên quản ngục thì lại khúm núm chắp tay vái người tử tù như vái thần tượng. Hành động cho chữ của Huấn Cao – những dòng chữ cuối cùng của 1 đời người – như 1 lần cuối khẳng định lại bản lĩnh khí phách của mình, truyền chiếc tài hoa, chiếc trong sáng cho những kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và tương lai. Trong khuôn cảnh đen tối của tù ngục, hình ảnh người tử tù bỗng trở nên lớn lớn, cao cả lạ thường, vượt lên trên những chiếc thấp hèn dung tục của thế giới xung quanh và chiếc màu sắc trắng của vuông lụa cũng như những dòng chữ tươi tắn tài hoa, thơm ngát như cũng sáng lên rạng rỡ, hầu hết như muốn hóa thành bất tử, như 1 lời nhắn nhủ con người giữ lấy chiếc thiên lương đẹp đẽ và trong sáng của mình.

Trong những truyện Chữ người tử tù và Bữa rượu máu những thủ pháp lãng mạn (lí tưởng hóa, phóng đại, nghệ thuật đối lập…) đôi lúc xen kẽ có bút pháp hiện thực (những chi tiết cụ thể, chính xác, giàu chất tạo hình). Ngoài tinh thần dân tộc và thái độ phê phán chiếc xã hội kim tiền ô trọc, lấy thịt đè người, thì con người nghệ thuật; con người tỉa tót cảm giác, màu sắc sắc và thanh âm vẫn còn hiện lên khá rõ qua từng trang viết.

Phân tách bài Chữ người tử tù – Mẫu 5

Nguyễn Tuân là người lữ khách suốt đời đi tìm chiếc đẹp, ko chỉ chiếc đẹp trên mức bình phàm mà là chiếc đẹp khác biệt, độc đáo mang trong mình bản sắc riêng. Nhưng trên ấy, nhà văn bằng bút hoa của mình vẫn theo đuổi chiếc đẹp để khẳng định “chiếc đẹp cứu rỗi nhân loại”, chứ ko cần theo đuổi chủ nghĩa duy mĩ. Chữ người tử tù dẫu đã qua bao nhiêu dòng chảy vô thủy vô chung của thời kì thì vẫn luôn là kiệt tác của Nguyễn, đồng thời là 1 trong những tuyên ngôn nghệ thuật rõ nhất cho quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Truyện xoay quay vấn đề đầy éo le, nghịch cảnh. Đấy là cuộc kỳ ngộ giữa Huấn Cao và quản ngục, Huấn Cao là người đứng lên dẫn đầu đội quân phiến loạn chống lại triều đình, trong lúc quản ngục lại là người của triều đình, là công cụ của triều đình. Huấn Cao là nghệ sĩ tài hoa có nghệ thuật viết chữ đỉnh cao, còn quản ngục lại đam mê nghệ thuật đó, và ao ước có được chiếc chữ của ông Huấn trong đời thì quả là báu vật. Chính sự éo le của vấn đề truyện, mà tính phương pháp nhân vật được bộc lộ rõ nét, cũng đồng thời ấy là hành trình Nguyễn Tuân đi tìm hạt ngọc ẩn giấu nơi tăm tối, bẩn thỉu như ngục tù này.

Nhân vật chính của truyện là Huấn Cao. Trước hết có tài viết chữ, hay chính là nghệ thuật thư pháp “chữ ông Huấn đẹp nhiều, vuông nhiều, nét chữ như mô tả chiếc khí thế tung hoành ngang dọc của 1 đời người”. Vì vậy mà danh tiếng của ông Huấn đã vang khắp vùng tỉnh Sơn này. Nhưng không tính ấy, Huấn Cao còn là 1 người anh hùng khí phách lẫm liệt, hào hùng, 1 kẻ chọc trời khuấy nước, 1 đấng hùng thiêng sa cơ. Ông đã dần đầu đội quân phiến loạn chống lại triều đình. Nhưng hầu hết tư thế lẫn tâm thế của ông, vẫn khiến cho người đọc sững sờ và khâm phục khí phách hiên ngang của con hổ dẫn đang bị giam cầm. “Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh, đánh thuỳnh”, những câu chữ của Nguyễn Tuân như khắc thêm nét vẽ cho người anh hùng đó, 1 vẻ lạnh lùng, khinh bạc, liêu bạc của người biết giá trị và thiên tài của mình. Ngay cả lúc trong ngục, được quản ngục thiện đãi, ông cũng thản nhiên nhận rượu thịt, coi ấy là chiếc hứng sinh bình.

Còn quản ngục, là 1 người thương và đam mê chiếc đẹp, hay nói phương pháp khác là 1 người thương đam mê nghệ thuật, nên biết được chiếc tài của Huấn Cao, vô cùng trọng đãi và kính nể ông. Và Nguyễn Tuân đã dùng những từ hoa đẹp nhất để viết về nhân vật này: “Trong hoàn cảnh đề lao người ta sống bằng tàn nhẫn và lừa lọc, tích phương pháp dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục này là 1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà mọi nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

Cảnh cho chữ chính là chi tiết đắt nhất trong toàn bộ tác phẩm. M.gorki từng nói: “Chi tiết là bụi vàng tác phẩm”. “Chi tiết lớn làm cho nên nhà văn lớn”. Chi tiết cảnh cho chữ đã nói lên hết thảy chiếc tài của Nguyễn Tuân. Nghệ thuật dựng cảnh, tạo ko gian cổ kính xưa kia đã tạo nên những mảng màu sắc mang trong mình đậm chất điện cảnh. Trên nền bức tranh ấy, hiện lên chân dung 2 con người tư thế đầy đối lập, và như 1 cuộc hoán vị đổi ngôi. Huấn Cao là tử tù, tù nhân nhưng “đang dậm tô nét chữ, mặc dầu cổ đeo gông, chân vướng xiềng”. Đấy chính là hình ảnh người nghệ sĩ lao động miệt mài,hăng say sáng tạo nghệ thuật, hay cũng giống như Nguyễn từng ví nhà văn đứng trước trang giấy như đứng trước “pháp trường trắng”, tấm lụa trắng còn nguyên vẹn lần hồ đó, cần chăng chính là pháp trường trắng kính cẩn và cô độc hơn đề lao kia của Huấn Cao. Còn viên quản ngục lại “khúm núm, tay run run bưng chậu mực”. Đấy là trình bày của lòng yêu và đam mê chiếc đẹp, đam mê nghệ thuật, nó được đẩy lên tới đỉnh điểm lúc là chiếc cúi đầu của viên quản ngục trước Huấn Cao. Trên đời này, rõ ràng có những chiếc cúi đầu làm cho người ta hèn mọn, yếu kém đi, nhưng chiếc cúi đầu trước chiếc đẹp, chiếc thiện lương thì lại nâng con người ta lên, ấy chính là thông điệp mà Nguyễn Tuân muốn truyền tải. Huấn Cao ra đi, nhưng tấm lụa nghệ thuật thư pháp còn mãi, như 1 lời tuyên bố rằng “chiếc đẹp luôn bất tử”. Loại đẹp đó đã cảm hóa quản ngục, đồng thời qua ấy cho ta thấy nét ngọc trong tâm hồn nhân vật. Ví dụ thế, chẳng cần như Đôt-tôi-epxki từng nói “Loại đẹp cứu rỗi nhân loại” ư?

Chữ người tử tù là 1 tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân, trên ấy nhà văn đã gửi gắm biết bao thông điệp ý nghĩa về nghệ thuật, về vai trò và sứ mệnh cũng như sức mạnh vĩ đại của chiếc đẹp. Chứng minh rằng “chiếc đẹp thực sự là cứu cánh của thế giới”.

Phân tách bài Chữ người tử tù – Mẫu 6

Nguyễn Tuân (19101987) quê trên làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh ra trong 1 gia đình nho học lúc Hán học đã tàn. Nguyễn Tuân nhiều lần theo gia đình chuyển nơi trên nhưng ông làm cho báo và viết văn chủ yếu trên Hà Nội. Phương pháp mạng tháng 8 thành công, Nguyễn Tuân tới có phương pháp mạng, ông dùng ngòi bút của mình chuyên dụng cho 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc.

Nguyễn Tuân là 1 nhà văn, 1 nghệ sĩ suốt đời đi tìm chiếc đẹp. Ông là người đã góp phần liên quan thể tùy thuộc} bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm cho phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem tới cho nền văn xuôi tiên tiến 1 phong phương pháp tài hoa độc đáo.

Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in 5 1938 trên tạp chí Tao Đàn, tiếp theo được tuyển in trong tập truyện Vang bóng 1 thời và đổi tên thành Chữ người tử tù.

Nhân vật chính trong Chữ người tử tù là Huấn Cao, 1 nhân vật điển hình trong những tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Phương pháp mạng. Đấy là những người tài hoa, bất đắc chí. Họ ko chỉ có tài mà còn có chiếc tâm trong sáng, mặc dầu chí ko thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.

Vấn đề truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo cho câu chuyện thêm đặc sắc. Vấn đề truyện trình bày mối quan hệ giữa nhân vật này có nhân vật khác, giữa nhân vật có hoàn cảnh sống, qua ấy bộc lộ tâm trạng tính phương pháp suy nghĩ… của nhân vật.

Nguyễn Tuân đã xây dựng 1 vấn đề truyện độc đáo, đặc sắc, giàu kịch tính cho 2 tuyến nhân vật trong tác phẩm của mình. 2 nhân vật ấy là Huấn Cao người tử tù phạm tội đại nghịch đang bị giam chờ ngày hành quyết, người tài hoa nức tiếng viết chữ đẹp… và nhân vật viên quản ngục người quản lí tù nhân, đại diện cho chiếc trật tự động xã hội đương thời nhưng lại siêu yêu chiếc đẹp, hâm mộ người tài và có tấm lòng lương thiện. Trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn đối lập nhau: nhưng họ lại có cùng điểm chung là đam mê chiếc đẹp tao nhã và đều có tâm hồn thanh khiết, lương thiện, biết đãi ngộ anh tài. Như vậy, trên bình diện nghệ thuật, họ lại là tri kỉ của nhau.

Hoàn cảnh gặp gỡ của họ thực éo le: ấy là nơi tù ngục tối tăm, nhơ bẩn, nơi người này quản lí người kia. Vấn đề này dẫn tới xung đột trong nội tâm của viên quán ngục: làm cho thế nào để vừa làm cho tròn phận sự của 1 người canh tù lại vừa giữ trọn tấm lòng đối có 1 người tài hoa mà mình từng quý trọng và ao ước gặp mặt. Từ đây phát sinh nhiều kịch tính: người tử tù thành người mà viên quản ngục nhờ có vả muốn xin chữ; đồng thời lại là người mở đường hướng thiện cho cuộc sống về sau của viên quản ngục. Chính vấn đề độc đáo này đã giúp làm cho nổi bật trọn vẹn, tự động nhiên vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao và làm cho sáng tỏ tấm lòng biệt đãi người tài của viên quản ngục.

Huấn Cao là 1 người tài hoa khác thường, ông có tài viết chữ siêu đẹp, chữ đẹp và vuông nhiều”, khiến cho nhiều người mơ ước có được chữ viết của ông treo trong nhà của mình, trong ấy có viên quản ngục.

Huấn Cao là 1 con người hiên ngang, khí phách, là 1 anh hùng đầu đội trời chân đạp đất. 1 tử tù đợi ngày ra pháp trường vẫn giữ trạng thái ung dung, tự động tại và ko hề nao núng. Tới cảnh chết chém ông còn chẳng sợ. Sự ngang tàng của ông còn được mô tả qua thái độ ko quỵ lụy trước cường quyền và hơn nữa lại còn miệt thị viên quản ngục.

Ông còn là 1 người có thiên lương trong sáng và cao đẹp. Ông ko cần là 1 con người sắt đá, ông cũng biết quý trọng người ngay, người tri kỉ. Lúc hiểu được tấm chân tình và thái độ từ chỗ khinh miệt, coi thường, dè chừng sang thái độ tôn trọng. Đấy là thái độ tôn trọng dối có con người có nhân phương pháp sống phải chăng đẹp: trong người tài, yêu chiếc thú vui tao nhã, thanh khiết. Ông sẵn sàng cho chữ chiếc chữ mà ko cường quyền và bạc tiền nào có thể sắm được chiếc chữ mà cả cuộc đời ông chỉ new viết cho bố người bạn thân. Tuy nhiên, chiếc đáng quý nhất và là chiếc mô tả thiêng lương cao đẹp của ông chính là những lời khuyên chân thành, cuối cùng đối có viên quản ngục trước lúc vào kinh thành thụ án. “Tại đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay đổi chốn đi… trên đây thiên lương khó giữ cho lành vững và rồi cũng tới nhem nhuốc mất chiếc đời lương thiện đi”.

Cho chữ để cứu người là chiếc tâm cao đẹp của Huấn Cao. Loại tâm ko chỉ là lòng nhân tình yêu mà nó còn có sức mạnh cảm hóa lòng người. Ông đã khiến cho viên quản ngục cảm phục “Chắp tay vái người tù 1 vái… nói 1 câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng Khiến cho nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Nhân vật viên quản ngục xuất hiện trong tác phẩm làm cho nổi bật chủ đề của tác phẩm. Đây là 1 con người ko sáng tạo được chiếc đẹp nhưng lại biết trân trọng yêu mến chiếc đẹp.

Là 1 ngục quan chịu trách nhiệm canh giữ tù nhân, giúp ích cho bộ máy cai trị đương thời nhưng viên quản ngục ko cần là kẻ ko có thiên lương, tàn ác, xảo trá mà ngược lại ông vẫn giữ được nhân phương pháp sống cao quý trong cảnh tù ngục tối tăm, nhiều cám dỗ.

Viên quản ngục biết trân trọng giá trị con người, biết quý trọng anh tài. Điều này mô tả rõ qua những chi tiết về những hành động biệt đãi đối có Huấn Cao và những người bạn tù của Huấn Cao.

Ông là 1 người có sở thích tao nhã, cao quý: ấy là thú chơi chữ. Sở nguyện cả đời của ông là có được đôi câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trang trọng trong nhà. Loại sở nguyện này mạnh mẽ vượt qua cả nỗi sợ hãi, bất chấp mọi nguy hiểm tới bản thân, làm cho đảo lộn trật tự động trong tù, biến 1 phạm nhân có án tử hình thành 1 thần tượng để mình tôn thờ.

Diễn biến nội tâm, hành động và phương pháp ứng xử của viên quản ngục chứng tỏ dù sống trên nơi tăm tối nhưng ông vẫn giữ được nhân phương pháp cao đẹp 1 tấm lòng trong thiên hạ, xứng đáng phát triển thành bạn tri kỉ của Huấn Cao. Nhân phương pháp và tâm hồn của viên quản ngục theo như nhận xét của Huấn Cao là “1 âm thanh trong trẻo xen giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

Cảnh cho chữ trong nhà lao vào đêm khuya tăm tối là 1 trong những sáng tạo tuyệt vời của tác giả nhằm làm cho bộc lộ vẻ đẹp hình tượng của nhân vật Huấn Cao. Đây là 1 cảnh tượng trước đây chưa từng có. 1 cảnh tượng mà khuôn cảnh và nội dung của nó hoàn toàn trái ngược nhau: cảnh cho chữ vốn thanh tao, tươi sáng, đẹp đẽ lại diễn ra trong chốn tù ngục dơ bẩn, tối tăm, ẩm thấp. Nhưng chính trong cảnh tượng như thế, chiếc đẹp, chiếc thiện lại càng chứng minh tính giá trị của nó.

Người nghệ sĩ vượt qua những gông cùm, đau đớn để hiện mình tươi sáng hơn, uy nghi, lồng lộng hơn để viết lên những nét chữ xinh đẹp, những tâm huyết của cả đời mình: trong lúc ấy, người vốn đại diện cho quyền uy lại trờ nên khúm núm, run run đón nhận từng nét chữ quý giá mà cả đời tâm huyết.

Trật tự động kỉ cương của nhà tù hoàn toàn bị đảo ngược: tù nhân phát triển thành người ban phát chiếc đẹp, chiếc lương thiện, thanh cao còn ngục quan vốn đại diện cho công lí lại trở nên bé bé, hèn mọn.

Giữa chốn ngục tù tàn bạo, ko cần kẻ thống trị làm cho chủ mà là người tù làm cho chủ, chiếc thiện vẫn hiện lên mạnh mẽ thắng lợi được chiếc ác. Đấy là sự thắng lợi của ánh sáng đối có bóng tối; là sự tôn vinh chiếc đẹp, chiếc thiện và nhân phương pháp cao cả của con người.